« Home « Kết quả tìm kiếm

Văn hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay


Tóm tắt Xem thử

- Văn hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay 1.
- Bối cảnh lịch sử văn hóa.
- Cách mạng tháng Tám là một bước ngoặt vĩ đại trong lịch sử Việt Nam.
- Từ đây, toàn dân Việt Nam bước sang một cuộc đời mới, lịch sử Việt Nam bước sang một trang mới.
- Năm 1968, chính quyền Mỹ phải chấp nhận thất, bại không ném bom ở Bắc Việt Nam nữa, nhưng đến năm 1972, chúng lại đưa máy bay ném bom phá hoại miền Bắc với quy mô lớn hơn..
- Việt Nam trở thành nơi đối đầu của hai trào lưu tư tưởng trên thế giới.
- Như thế, nét riêng của lịch sử Việt Nam 50 năm qua là cả dân tộc phải tiến hành cuộc kháng chiến kéo dài 30 năm.
- Nhìn ở phương diện văn hóa học, chiến tranh là "giai điệu".
- Tính chất không bình thường này sẽ chi phối mọi phương diện trong đời sống văn hóa dân tộc từ nội dung đến thể loại, loại hình..
- Sự thay đổi toàn diện của xã hội Việt Nam.
- Tác động lớn nhất của cuộc Cách mạng tháng Tám đối với văn hóa là tạo ra một xã hội của những người chủ, mà nguồn gốc xuất thân của họ là nông dân, công nhân.
- Ở nông thôn, việc tổ chức đời sống sản xuất vào thời chiến tranh được làm theo mô hình hợp tác xã, nông trường quốc doanh, đã khiến cho diện mạo làng xã ở nông thôn Bắc Bộ có một thời hơi khác so với xã hội nông thôn Việt Nam cổ truyền.
- Công cuộc đổi mới do Đảng Cộng sản Việt Nam khởi xướng, lãnh đạo đã đem đến cho nông thôn Việt Nam một sinh khi mới..
- Trong khi đó, từ năm 1945 đến nay, nền công nghiệp của Việt Nam có nhiều bước tiến nổi bật, dẫn vượt lên hẳn những gì chính phủ thực dân đã làm trước năm 1945, các khu công nghiệp Thái Nguyên, Việt Trì, Vinh, Hải Phòng.
- xuất hiện, làm cho bộ mặt xã hội Việt Nam thay đổi hẳn..
- Công cuộc đổi mới sau năm 1986 khiến cho nhịp độ phát triển công nghiệp nói riêng, kinh tế nói chung nhanh hơn rất nhiều..
- Thời đại mới này là thời đại truyền thống hiếu học của dân tộc Việt Nam được phát triển rực rỡ nhất..
- Lần đầu tiên, nước Việt Nam sau Cách mạng tháng Tám đã từng bước xây dựng được một hệ thống giáo dục hoàn chỉnh, đáp ứng được yêu cầu nâng cao dân trí của nhân dân, nhất là của thế hệ trẻ, phục vụ đắc lực các cuộc kháng chiến cứu nước, giành và bảo vệ độc lập dân tộc, hòa bình, thống nhất đất nước, cũng như xây dựng và phát triển đất nước với một xã hội công bằng, văn minh, đem lại hạnh phúc cho toàn thể dân tộc cho từng người và từng gia đình".
- Theo điều tra dân số năm 1989, tỉ lệ người biết chữ ở Việt Nam là 88%.
- Như thế, những thay đổi cơ bản từ kinh tế đến giáo dục khiến cho xã hội Việt Nam có những thay đổi căn bản.
- Nhìn ở phương diện văn hóa học, ít nhất cũng cán ghi nhận các khía cạnh sau:.
- Như vậy, chủ/khách thể của văn hóa Việt Nam thay đổi 30 với giai đoạn trước cả về chất lượng lẫn số lượng..
- Sự lãnh đạo của Đảng trên phương diện văn hóa.
- Khác với các giai cấp từng giữ vai trò lãnh đạo xã hội Việt Nam, giai cấp vô sản rất chú trọng lãnh đạo các phương diện của văn hóa.
- Đảng ta đã có một quan điểm đúng đắn về văn hóa, đồng thời có một phương pháp lãnh đạo đúng đắn đối với văn hóa.
- Ngay từ những năm chưa giành được chính quyền, Đảng Cộng sản Đông Dương (nay là Đảng Cộng sản Việt Nam) đã chú trọng đến văn hóa.
- Năm 1943, đề cương văn hóa Việt Nam của Đảng được công bố Bản đề cương nhấn mạnh ba nguyên tắc vận động của cuộc vận động văn hóa là dân tộc hóa, đại chúng hóa và khoa học hóa.
- Đó là định hướng quan trọng cho sự ra đời của nền văn hóa mới ở giai đoạn sau năm 1945.
- Ngày Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất được triệu tập ở Hà Nội.
- Năm 1948, Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ hai họp tại chiến khu Việt Bắc.
- Đồng chí Trường Chinh, lúc ấy là Tổng bí thư của Đảng đã trình bày bản báo cáo Chủ nghĩa Mác và vấn đề văn hóa Việt Nam.
- Để giải quyết một số vấn đề của văn hóa Việt Nam..
- Đại hội đại biển lần thứ 6 của Đảng Cộng sản Việt Nam, trên tinh thần nhìn thẳng vào sự thật, đánh giá đúng sự thật và nói rõ sự thật, đã khẳng định vị trí, vai trò của văn hóa văn nghệ.
- Nối tiếp tinh thần này, nghị quyết V của Bộ chính trị đã khẳng định văn hóa là nhu cầu thiết yếu trong đời sống tinh thần của xã hội, thể hiện trình độ phát triển chung của một đất nước, một thời đại, là lĩnh vực sản xuất tinh thần tạo ra những giá trị văn hóa, những công trình nghệ thuật được lưu truyền từ đời này qua đời khác, làm giàu đẹp thêm cuộc sống con người.
- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ VII của Đảng đã tiếp tục phát triển những luận điểm cơ bản của Đại hội VI, cũng như nghị quyết V của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa VII Triển khai nghị quyết này, hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương khóa VI đã ra nghị quyết về công tác văn hóa văn nghệ..
- Như vậy, từ Đề cương văn hóa Việt Nam năm 1943 đến nghị quyết hội nghị lần thứ 5 của Ban chấp hành Trung ương khóa VIII, quan điểm của Đảng về văn hóa càng ngày càng tiếp cận tính chất khoa học của đối tượng.
- Chính quan điểm, sự lãnh đạo, chỉ đạo này đã khiến văn hóa Việt Nam từ 1945 đến nay có bước phát triển vượt bậc..
- Đặc điểm của văn hóa từ năm 1945 đến nay.
- Tiến trình 50 năm qua của văn hóa Việt Nam, thực ra rất ngắn ngủi so với toàn bộ diễn trình văn hóa Việt Nam, nhưng lại là một giai đoạn văn hóa Việt Nam phát triển cả về lượng, lẫn về chất..
- Sự khái quát các đặc điểm của tiến trình văn hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay còn ở mức ban đầu..
- Sự phát triển của văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp.
- Điều dễ nhận thấy của văn hóa Việt Nam từ năm 1945 đến nay là sự phát triển của văn hóa chuyên nghiệp, chuyên nghiệp hóa hoạt động văn hóa.
- Sự phát triển này ngày càng khẳng định rõ hơn bản sắc văn hóa dân tộc, cũng khẳng định sự tiếp cận với xu thế hiện đại của thời đại..
- Năm 1947, Đảng ta chủ trương xây dựng lại các nhà xuất bản sách và các báo Hoạt động văn học nghệ thuật, phát triển mạnh mẽ trong thời kháng chiến chống Pháp, chỉ tính riêng chín năm từ năm ta đã xuất bản được 8.579.415 bản sách, sản xuất được 35 bộ phim thời sự tài liệu..
- Ngay sau khi hòa bình lập lại, lực lượng hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp được tổ chức lại.
- các thể loại như nhạc, kịch hát, thơ múa, kịch múa, các thể loại âm nhạc thính phòng tiếp thu từ tinh hoa văn hóa Bác học thế giới là những thể loại đòi hỏi phải có kiến thức phong phú, trình độ kỉ thuật nghiệp vụ cao (cả về sáng tác lẫn biểu diễn), đã phát triển.
- Chính vì thế, có thể nói rằng, đây là thời kì nghệ thuật ca múa và sân khấu, đặc biệt là kịch nói rất phát triển Nghệ thuật, điện ảnh qua thời kì phôi thai trước năm 1945, sau chín năm kháng chiến và từ 1954 đến nay là bước phát triển đột biến.
- Đã có những phim Việt Nam như Cánh đồng hồng và một số phim khác đoạt, giải thưởng quốc tế..
- Cùng với điện ảnh là nghệ thuật sân khấu, tạo hình, tất cả đều rất phát triển..
- Đáng kể hơn cả là sự phát triển của văn học.
- Sự trong sáng về ngôn ngữ, sự đa dạng về chủ đề, sự phong phú về sáng tác, thể loại đã khiến cho nền văn học hiện đại xứng đáng với đánh giá của Đại hội đại biểu lần thứ tư của Đảng Cộng sản Việt Nam: đứng vào hàng tiên phong của văn học các dân tộc bị áp bức, đấu tranh giải phóng dân tộc..
- Có được những thành tựu ấy chính là nhờ sự phát triển cả về chất lượng và số lượng của đội ngũ hoạt động văn hóa chuyên nghiệp.
- văn hóa Việt Nam thay đổi.
- Nhiều nhà hoạt động văn hóa sinh ra và trưởng thành từ đội ngũ những người lao động.
- Mặt khác, chính hai cuộc kháng chiến oai hùng của dân tộc đã đào luyện một đội ngũ những nhà hoạt động văn hóa nghệ thuật chuyên nghiệp.
- được tôi luyện qua hai cuộc kháng chiến, trở thành những tác giả, những nhà hoạt động văn hóa chuyên nghiệp trong thời gian qua..
- Hơn nữa, sự thay đổi trong chủ/khách thể của văn hóa Việt Nam cần phải được nhìn nhận từ phía phong trào văn hóa quần chúng.
- Chưa bao giờ trong diễn trình văn hóa Việt Nam lại có một phong trào văn hóa quần chúng như năm mươi năm qua.
- Nếu trong chống Pháp có phong trào kháng chiến hóa văn hóa, văn hóa hóa kháng chiến thì kháng chiến chống Mĩ lại có phong trào tiếng hát át tiếng bom, tiếng loa hòa tiếng súng, tất cả những phong trào này đều là phong trào văn hóa nghệ thuật quần chúng..
- Sự phát triển ấy, ít nhất phải được ghi nhận từ hai phương diện: chứng tỏ sự thay đổi chủ/khách thể của văn hóa Việt Nam và tạo môi trường, tạo nguồn cho văn hóa chuyên nghiệp phát triển..
- Kế thừa và nâng cao các giá trị văn hóa truyền thống.
- Từ quan điểm về văn hóa, những năm qua, Đảng, Nhà nước ta rất chú trọng khai thác các giá trị văn hóa truyền thống.
- Chưa bao giờ trong diễn trình lịch sử của văn hóa Việt Nam, văn hóa truyền thống lại được chú trọng kế thừa, phát huy một cách sâu sắc như vậy.
- Ngay từ năm 1946, Hồ Chí Minh đã phát biểu trong Hội nghị văn hóa toàn quốc lần thứ nhất: "phải biết tiếp thu những kinh nghiệm quý báu của nền văn hóa xưa và nay để xây dựng nền văn hóa mới Việt Nam với ba tính chất dân tộc, khoa học và đại chúng.
- Cho nên, năm mươi năm qua, công tác kế thừa, phát triển văn hóa truyền thống đạt được nhiều thành tựu đáng kể.
- Công tác sưu tầm nghiên cứu văn hóa dân gian đã đạt được những thành tựu vượt bậc.
- Nếu như "Trước Cách mạng tháng Tám, ở nước ta chưa có ngành nghiên cứu văn học dân gian và khoa nghiên cứu văn hóa dân gian".
- thì hiện nay khoa nghiên cứu văn hóa dân gian đã phát triển, trở thành một ngành khoa học có vị thế quan trọng trong các ngành nghiên cứu khoa học xã hội ở Việt Nam..
- Các lĩnh vực của văn hóa dân gian được khai thác, lĩnh vực nào cũng có những công trình đáng kể như văn học dân gian với Tục ngữ ca dao dân ca Việt Nam của Vũ Ngọc Phan, Kho tàng.
- truyện cổ tích Việt Nam của Nguyễn Đổng Chi, v.v.
- như lễ hội với lễ hội cổ truyền của người Việt ở Bắc Bộ Việt Nam do Lê Trung Vũ chủ biên, Lễ hội truyền - thống trong đời sống xã hội hiện đại do Đinh Gia Khánh, Lê Hữu Tầng đồng chủ biên v.v.
- Với văn hóa Bắc học, công việc nghiên cứu đã đạt được những thành tựu đáng kể, nhiều tác giả của văn học cổ được nghiên cứu, đánh giá, khẳng định như Nguyễn Trãi, Nguyễn Du, Hồ Xuân Hương, Cao Bá Quát, Nguyễn Đình Chiểu v.
- Sau nghị quyết V của Bộ chính trị Ban chấp hành Trung ương khóa VI, đặc biệt là sau nghị quyết hội nghị lần thứ 4 của Ban chấp hành Trung ương khóa VII về văn hóa văn nghệ, việc khai thác di sản văn hóa dân tộc ngày càng được chú trọng.
- Vấn đề gìn giữ bản sắc văn hóa dân tộc được Đảng, Nhà nước đặt ở tầm vi mô để giải quyết các công việc nhằm giữ gìn bản sắc văn hóa dân tộc.
- Vì thế, việc kế thừa phát huy các giá trị văn hóa mới và kết quả của công việc không chỉ là bảo lưu, gìn giữ văn hóa dân gian, truyền thống, mà còn góp phần không nhỏ vào sự phát triển của văn hóa chuyên nghiệp, đồng thời chứng tỏ sự thống nhất của văn hóa các dân tộc ở Việt Nam..
- Giao lưu văn hóa ngày càng mở rộng.
- Nét khác biệt căn bản giữa văn hóa từ 1945 đến nay và các giai đoạn trước là ở mức độ của sự giao lưu văn hóa Giai đoạn từ 1945 đến nay, sự giao lưu này diễn ra trong sự tự nhiên và tự giác..
- Điểm xuất phát của vấn đề là quan điểm của Đảng Cộng sản Việt Nam về văn hóa.
- Tiếp thu tinh hoa văn hóa nước ngoài để xây dựng nền văn hóa mới là sợi chỉ đỏ xuyên suốt, quá trình lãnh đạo, chỉ đạo của Đảng ta đối với công tác văn hóa.
- Việc trao đổi văn hóa với nước ngoài được chú ý ngay từ sau hòa bình lập lại, ở tất cả các bộ môn văn hóa: sân khấu, âm nhạc, ca múa.
- giao hưởng, điện ảnh, thư viện, bảo tàng, văn hóa quần chúng, ba lê v.v.
- Nhiều hiệp định văn hóa được kí giữa nước ta, và các nước bạn.
- Sự trao đổi văn hóa giữa nước ta và các nước bạn cũng đã diễn ra..
- Mặt khác, từ năm 1951, nhất là sau năm 1954, khi Việt Nam là thành viên của phe xã hội chủ nghĩa, nên sự giao lưu văn hóa giữa Việt Nam và các nước xã hội chủ nghĩa như Liên Xô và các nước Đông Âu (trước đây), cũng như Trung Quốc đã được đẩy mạnh..
- Trong khi đó, ở miễn Nam, từ năm 1954 đến năm 1975, giao lưu giữa văn hóa Việt Nam và văn hóa Mỹ, không phải là giao lưu tự nhiên, mà là sự giao lưu cưỡng bức..
- Từ sau năm 1975, hai miền thống nhất, việc giao lưu văn hóa giữa nước ta và thế giới càng diễn ra mạnh mẽ hơn.
- là khoa học thông tin hiện đại, đã khiến cho việc giao lưu văn hóa ở thời hiện đại diễn ra mạnh mẽ hơn nhiều so với trước đây..
- Tóm lại, giai đoạn từ năm 1945 đến nay thực ra là ngắn ngủi 50 với diễn trình lịch sử của văn hóa Việt Nam.
- Thêm vào đó trong đoạn này văn hóa Việt Nam lại phát triển trong điều kiện của cuộc chiến tranh giữ nước kéo dài 30 năm, trong điều kiện lịch sử đầy biến động phức tạp, trong điều kiện khoa học công nghệ thông tin phát triển như vũ bão khắp toàn cầu, nhưng nó vẫn đạt được những thành tựu rất đỗi tự hào, tiếp nối mạch phát triển của văn hóa dân tộc.