« Home « Kết quả tìm kiếm

Văn mẫu lớp 11: Phân tích khổ thơ thứ hai bài Tràng Giang của Huy Cận 2 Dàn ý & 6 bài văn mẫu lớp 11


Tóm tắt Xem thử

- Dàn ý phân tích khổ 2 bài Tràng Giang Dàn ý số 1.
- Hoàn cảnh sáng tác: Bài thơ được sáng tác vào một buổi chiều thu vào năm 1939, Huy Cận đứng ở bờ Nam bến Chèm bên sông Hồng ngắm cảnh không gian mênh mang và nghĩ về kiếp người nhỏ bé, trôi nổi, vô định..
- “Tràng giang” gợi hình ảnh một con sông dài, rộng lớn..
- Câu thơ đề từ: “Bâng khuâng trời rộng nhớ sông dài” gợi nỗi buồn sâu lắng trong lòng người đọc.
- nỗi buồn mênh mang, không rõ nguyên cớ nhưng da diết, khôn nguôi.
- Đó còn là không gian rộng lớn “trời rộng sông dài” khiến hình ảnh con người càng trở nên nhỏ bé, lẻ loi, tội nghiệp..
- Phân tích khổ 2 bài thơ Tràng giang.
- Hai câu thơ tiếp theo, không gian được mở ra bát ngát:.
- Huy Cận đã vẽ nên một khung cảnh không gian ba chiều rộng lớn: có chiều cao (nắng xuống, trời lên), có chiều rộng (trời rộng) và cả chiều dài (sông dài), thậm chí là có cả độ “sâu”..
- Không gian càng rộng, hình ảnh con người lại càng nhỏ bé, cô độc, lẻ loi đến tội nghiệp..
- Hình ảnh “bến cô liêu” với âm hưởng man mác của hai chữ “cô liêu” ấy, một lần nữa lại gợi ra một nỗi buồn nhân thế, nỗi buồn về sự sống quá nhỏ nhoi, rất hữu hạn trong thiên nhiên, mà vũ trụ thì cứ mở ra mãi đến vô tận, vô cùng..
- Không gian càng vắng lặng rộng lớn bao la thì hình ảnh con người càng cô đơn đến tột cùng.
- Nỗi buồn lan tỏa khắp không gian, bao trùm lên cảnh vật..
- Đây không phải là nỗi buồn của cá nhân ông mà là cảm xúc chung của cả một thế hệ, đặc biệt là giới văn nghệ sĩ đầu thế kỉ XX..
- Phân tích khổ 2 bài Tràng Giang - Mẫu 1.
- Trong phong trào thơ mới giai đoạn 1932-1945 có lẽ nồng nàn, lãng mạn nhất là Xuân Diệu, điên cuồng nhất thì chính là Hàn Mặc Tử, rồi buồn nhất thì có lẽ không ai qua được Huy Cận.
- Nỗi buồn của Huy Cận không phải là nỗi buồn tình yêu đôi lứa, mà là nỗi buồn đời, buồn thân phận nổi trôi.
- Có người nói vui rằng lúc mang thai có lẽ thân mẫu Huy Cận thường sầu, nên chàng thi sĩ trẻ ấy sớm đã mang trong mình một nỗi buồn bã vô tận, mắt luôn đẫm lệ đời.
- Biệt tài văn chương của Huy Cận chính là biết cách gợi nỗi buồn, lây nỗi buồn của mình sang cả không gian mênh mang, mà thể hiện rõ ràng nhất ấy là trong bài thơ Tràng giang..
- Thơ Huy Cận thường giàu triết lý và nỗi niềm suy tưởng về nhân sinh quan, thế giới quan, giá trị quan một cách sâu sắc.
- Huy Cận yêu thích nhất là thể loại Đường thi của văn học Trung Quốc, rồi cũng yêu luôn cả cái chất lãng mạn của văn học Pháp.
- Huy Cận không nhìn thấy những cồn cát lớn, mà lại thấy những cái cồn nhỏ nhoi, lạc lõng "lơ thơ", rất thưa thớt mong manh, cảm giác Huy Cận tả cồn cát mà như tả một cành liễu phất phơ trước gió vậy.
- Thế rồi đang lúc trầm tư, suy tưởng Huy Cận bỗng đưa vào một câu hỏi, câu hỏi ấy đã chính thức đánh dấu cái sự sống mong manh giữa cái không gian thật hoang vắng nơi bến Chèm khi ấy.
- Ông nghe đâu đây có tiếng người vãn buổi chợ chiều hoặc đang nghi vấn tiếng vãn chợ ồn ào văng vẳng ở đâu chăng? Dù thế nào thì cũng không quan trọng, bởi chúng đều đúng và đều hướng tới một cảnh duy nhất, có tiếng chợ đấy nhưng xa lắm, chỉ lờ mờ, thấp thoáng mà thôi và Huy Cận vẫn cô đơn, lẻ loi tại bến sông này.
- Rồi thì lòng Huy Cận cũng càng trở nên trầm lặng hơn, buồn hơn, cảm giác cô đơn lạc lõng hơn cả..
- Những tưởng mở rộng không gian thì nỗi buồn Huy Cận sẽ loãng hơn, đỡ hiu hắt hơn, nhưng không, dường như ta cảm giác được rằng thi sĩ đang nhả nỗi buồn của mình một cách từ từ.
- Huy Cận tựa như một chú mực đang phun thứ mực đen của mình ra khiến chúng lan tỏa khắp mặt nước vậy.
- Để rồi đâu đâu ta cũng thấy vương vấn nỗi buồn của Huy Cận, từ gió, trời, sông, bến đều nhuốm nỗi sầu của ông.
- Đọc câu thơ cuối, dường như Huy Cận đang ngầm khẳng định thêm cái nỗi sầu của mình "Sông dài trời rộng, bến cô liêu".
- và bến chính là phiến chỉ Huy Cận đó.
- Chỉ một đoạn thơ ngắn bốn dòng, mang màu sắc cổ điển và một nét chấm phá hiện đại, cũng đủ để cho ta thấy một hồn thơ Huy Cận thật đặc sắc.
- mà khai thác, có lẽ sống dưới thân phận một thi sĩ nghèo, lại đường buổi rối ren, loạn lạc nên Huy Cận mới sinh ra nhiều nỗi buồn như thế.
- Thơ Huy Cận phải đọc thật kỹ ta mới có thể thấy một tình yêu quê hương, đất nước thật nồng nàn, tha thiết chẳng kém ai đang ẩn hiện trong những vần thơ buồn man mác của ông..
- Phân tích khổ 2 bài Tràng Giang - Mẫu 2.
- Không tha thiết, nồng nàn như Xuân Dệu, cũng chẳng điên cuồng lãng mạn như Hàn Mặc Tử, thơ của Huy Cận là một nỗi buồn mênh mông vô tận, buồn từ tâm hồn đến cảnh vật.
- Đọc thơ ông, ta thấy pha tạp chút hiện đại của văn học Pháp, nhưng nhiều nhất vẫn là nét cổ điển đậm đà của thơ Đường, thế nên ta thường thấy trong thơ ông có nỗi buồn rất lạ, rất vô định.
- Một trong số những bài thơ tiêu biểu nhất của Huy Cận phải nhắc đến Tràng giang..
- cảnh sinh tình đem đến một thi phẩm tuyệt vời, khiến độc giả phải đắm chìm vào trong cả nỗi buồn của chàng thi sĩ.
- Ngắm mãi cảnh sông nước dập dềnh, Huy Cận hướng tầm mắt buồn của mình về phía những cồn nhỏ "lơ thơ", từ láy ấy gợi cho độc giả một cảm giác ít ỏi, nhẹ tênh, lơ lửng..
- Cả cồn cả gió đều gợi nên một nỗi buồn khôn tả, ấy là cảm giác chơi vơi, lạc lõng của người thi sĩ cô đơn trước cảnh sông nước, buồn bã trước thời cuộc.
- Rồi Huy Cận bỗng nghe "Đâu tiếng làng xa vãn chợ chiều", đó là một câu hỏi ngỏ, nhà thơ tự hỏi chính bản thân mình hay hỏi trời đất như thế..
- Huy Cận hỏi gì? Hỏi tiếng làng xa vãn chợ ở đâu hay hỏi dường như đâu đây có tiếng vãn chợ chiều văng vẳng vọng về cũng đều có ý nghĩa cả.
- như thế nhưng Huy Cận vẫn có thể nghe thấy tiếng người râm ran buổi chợ chiều thì chứng tỏ bến Chèm này phải thật hoang vắng tĩnh lặng đến nhường nào chứ? Thoang thoảng trong khổ thơ thứ hai này đã có sự sống xuất hiện, nhưng nó cứ thấp thoáng và mỏng manh, thế nên Huy Cận lại càng trở nên cô đơn hơn..
- Một hình ảnh khác lại càng nhấn mạnh được cái tính thi vị đầy sáng tạo trong nỗi buồn thơ Huy Cận, "nắng xuống, trời lên".
- Chỉ một câu thơ đơn giản vậy thôi nhưng Huy Cận đã đem vào đó cái không gian rộng lớn, bao la và riêng mình thi sĩ cô độc trong cái khoảng không ấy.
- Quả thực lời nhận định Huy Cận là nhà thơ có nỗi ám ảnh với.
- Huy Cận buồn gì mà nhiều đến thế, làm sao cái nỗi buồn ấy có thể lan rộng khắp không gian, từ sông, tới trời, tới bến, tới gió, tới cồn cát cũng buồn thiu theo nỗi sầu man mác mang tên Huy Cận..
- Đúng như lời Nguyễn Du trong Kiều: "Người buồn cảnh có vui đâu bao giờ?", đó là nỗi buồn thế sự, buồn cho thân phận nổi trôi vô định giữ thời buổi rối ren Tây ta lẫn lộn, là nỗi buồn chung cho cả một xã hội Việt Nam thời bấy giờ..
- Thơ Huy Cận vừa cổ điển vừa hiện đại, thật nhiều ý vị và sâu sắc biết mấy, đọc riết rồi ta như chìm vào thơ ông để buồn theo cái buồn của ông..
- Phân tích khổ 2 bài Tràng Giang - Mẫu 3.
- Nếu trước đó ta thấy con thuyền bị vây bủa bởi những lớp sóng như những nỗi buồn điệp điệp thì ở đây ta lại gặp con người như những cồn cát nhỏ bé, chơi vơi đang bị dòng lũ cuộc đời nhấn chìm dần.Hình tượng thơ đó còn gợi lên cảm giác suy ngẫm về những cuộc đời trong xã hội cũ..
- Chính Huy Cận đã cho biết:ông viết dòng thơ này với sự ảnh hưởng từ thơ Chinh phụ ngâm:.
- Đến hai câu thơ này, ta lại thấy gợi lên một nỗi buồn mênh mang khắp sông dài trời rộng.
- Nhưng cái nhìn của Huy Cận hướng về bầu trời lại thấy cảm giác sâu chót vót như ông bị hút vào cái thăm thẳm của bầu trời trong một cảm giác rợn ngợp không cùng..
- Mặt khác hai dòng thơ này còn tạo sự kết hợp mang cảm giác vũ trụ- cảm giác thường thấy ở thơ Huy Cận.
- Huy Cận đã dùng cái thực tế để biểu hiện cái hư ảo khó thấy và lại dùng cái hư ảo để lột tả tinh thần của cái thực tế đến tàn nhẫn..
- Cũng với những dòng thơ này ta còn thấy nỗi buồn của Huy Cận đã vượt khỏi lòng mình để nhuộm sầu cả vũ trụ.
- Nhân vật trữ tình trong Tràng giang có nỗi buồn mênh mang, trải khắp và thấm đượm cả một không gian bát ngát, bao la.
- Sông dài, trời rộng, vũ trụ mênh mang và nỗi buồn của con người cũng là vô tận.
- Huy Cận thực tài tình khi đã dựng tả cả một bức tranh trời nước mênh mang mà đầy tâm tư sâu lắng..
- Phân tích khổ 2 bài Tràng Giang - Mẫu 4.
- "Tràng giang".
- là bài thơ kiệt tác của Huy Cận rút trong tập thơ "Lửa thiêng".
- tiêu biểu cho vẻ đẹp của hồn thơ Huy Cận trước cách mạng: hàm súc, cổ điển, giàu chất suy tưởng triết lí, thấm thía một nỗi buồn nhân thế "sầu trăm ngả"..
- ở khổ một, Huy Cận nói đến cảnh tràng giang một buổi chiều mênh mông, vắng vẻ.
- Không gian nghệ thuật được mở rộng về đôi bờ và bầu trời.
- Câu thơ của Huy Cận làm ta liên tưởng đến câu thơ của Xuân Diệu:.
- Thi sĩ Huy Cận lại nhận diện bầu trời không phải là cao mà là sâu, "sâu chót vót":.
- và "sâu thăm thẳm", nhưng Huy Cận lại cảm nhận là "sâu chót vót".
- song song với "trời lên", mênh mông đến rợn ngợp của không gian vũ trụ vô tận, và cũng là nỗi buồn như vô tận trong lòng người.
- Cảnh sắc tràng giang được nói đến trong đoạn thơ là một không gian nghệ thuật đẹp mà buồn.
- Tình yêu đó mang nỗi buồn sông núi, nỗi buồn về đất nước của Huy Cận của thế hệ các nhà thơ thời tiền chiến.
- Đọc đoạn thơ trên, ta mới thấu hiểu nỗi lòng thi nhân trước cách mạng: "Chàng Huy Cận khi xưa hay sầu lắm..."..
- Phân tích khổ 2 bài Tràng Giang - Mẫu 5.
- Tràng giang là một trong những bài thơ nổi tiếng nhất của Huy Cận “hầu như trở thành cổ điển” (Xuân Diệu).
- Qua bài thơ, ta cũng thấy được nồi sầu vũ trụ của Huy Cận.
- Huy Cận đã đưa thêm những nét cạ thô để diễn ta cái bé nhỏ, cô đơn, xa vắng và nỗi buồn của hồn người đã thấm sâu vào tạo vật, ở đây Huy Cận đã dùng hàng loạt những hình ảnh và từ ngữ gợi buồn: “cồn” giữa dòng sông vốn gợi sự trống vắng, đơn độc, nay thêm “cồn nhỏ".
- Huy Cận có lần tâm sự rằng, khi khổ thơ trên ông đã chịu ảnh hưởng vần thơ trong Chinh phụ ngâm khúc:.
- Đây chính là cảm xúc vũ trụ thật mãnh liệt mà tinh tế của Huy Cận: Khi mặt trời đang ở trên cao thì cảm giác về khoảng cách bầu trời - mặt đất sẽ trở nên hữu hạn, còn khi mặt trời chìm dần xuống thì ánh nắng hắt lên cao sẽ làm cho bầu trời trở nên trong xanh hơn và như bị dầy lên cao đến vô cùng.
- “sâu chót vót ” Huy Cận không dùng từ “cao” mà dùng từ “sâu” vì nó vừa gợi độ cao, vừa gợi cái hun hút, thăm thẳm của bầu trời hoàng hôn, từ “chót vót” lại càng làm tăng thêm cái rợn ngợp của khung cảnh..
- Tất cả là một vẻ đẹp hùng vĩ nhưng hoang vắng gợi rõ nỗi buồn cô đơn, thấm thía, niềm “bâng khuâng” mơ hồ của con người trước vũ trụ, trước “trời rộng, sông dài”.
- Thủ pháp nghệ thuật tương phản đã được Huy Cận sử dụng rất thành công, gây ấn tượng sâu sắc đối với người đọc..
- Huy Cận nói riêng, các nhà thơ lãng mạn nói chung, đã đem tâm trạng buồn, cô đơn của mình “phủ lên thiên nhiên”.
- Phân tích khổ 2 bài Tràng Giang - Mẫu 6.
- Thơ là cây đàn muôn diệu của tâm hồn của nhịp thở con tim, thơ diễn tả rất thành công mọi cung bậc cảm xúc của con người, niềm vui, nỗi buồn sự cô đơn tuyệt vọng..
- Có những tâm trạng của con người chỉ có thể diễn đạt bằng thơ, vì vậy thơ không chỉ nói hộ lòng mình mà thơ còn thể hiện những băn khoăn suy nghĩ về sự biến đổi của thế sự với cảm xúc dạt dào khi thấy cái tôi nhỏ bé trước vũ trụ bao la Huy Cận đã viết nên tác phẩm “Tràng Giang”, đặc biệt qua hai khổ thơ đầu của đoạn thơ ta cảm nhận rõ được điều đó..
- Mang trong mình sứ mệnh cao cả của một nhà thơ khi sáng tạo nghệ thuật cùng với nỗi buồn thế sự đầy sâu sắc Huy Cận đã xây dựng được một phong cách hoàn toàn mới mẻ, khác với những nhà thơ cùng thời.
- Tiêu biểu cho phong cách nghệ thuật của ông có thể kể đến “Tràng Giang”, theo lời kể của Huy Cận bài thơ được gợi cảm xúc từ một buổi chiều thu năm 1939 khi tác giả đứng ở bờ Nam Bến Chèm.
- Mở đầu bài thơ Nhà thơ Huy Cận đã sử dụng một loạt các thi liệu trong thơ Đường.
- Nỗi buồn đó được lý giải trong câu nói của Huy Cận lúc đó chúng tôi mang một nỗi buồn đó là nỗi buồn thế hệ, chưa làm được gì cho đất nước trước cảnh nước mất nhà tan..
- Dường như nỗi buồn của tâm cảnh đã nhuộm vào ngoài cảnh để rồi những nỗi buồn ấy gợi lên theo từng đợt trong lòng thi nhân..
- Phải chăng chính Huy Cận cũng đã bắt gặp bóng dáng đó trong cuộc đời mình khi.“Bâng khuâng đứng giữa hai dòng nước, Chọn một dòng hay để nước trôi đi”..
- Trong thơ của mình Huy Cận đã nhiều lần nhắc đến nỗi sầu buồn thiên thu, đến đây ta lại bắt gặp thêm một nỗi sầu nữa đó là sầu trăm ngả, chỉ với 3 từ cùng một cành củi khô đã nói lên được hình ảnh của những kiếp người nhỏ bé trong xã hội cũ, nếu trong thơ trung đại mỗi hình ảnh chất liệu đưa vào thơ đều phải được gọt giũa, chọn lọc như tùng, cúc, trúc, mai thì trong Tràng Giang Huy Cận đã đưa vào một hình ảnh rất đời thường: củi khô.
- Phải chăng cành củi khô ấy cũng chính là nỗi cô đơn lạc lõng trong lòng tác giả, chính lúc bắt gặp cành củi khô ấy tác giả đã đối diện với những cái hữu hạn lớn lao của đất trời từ đó nỗi sầu nhân thế ấy đã được nêu lên trở thành nỗi buồn chung của một thế hệ thanh niên yêu nước.
- Vẫn là bức tranh thủy mặc sông nước ấy nhưng nó đã được vẽ thêm đất, thêm làng vậy mà nỗi buồn tái tê ấy vẫn hiện diện, nó được gợi lên qua sự tiêu điều của những cồn cỏ, sự hiu hắt của gió và sự vắng vẻ của cảnh vật..
- Dường như ngọn gió đìu hiu ấy đã vượt thời gian, xuyên không gian và trôi vào thơ Huy Cận.
- mọc trên dòng “Tràng Giang”.
- Ở câu câu thơ này cái tinh tế của Huy Cận là ở chỗ ông lấy động để nói tĩnh, lấy tiếng chợ vãn để gợi nên không khí vắng lặng của không gian đồng thời thể hiện mong muốn được giao hòa, giao cảm của con người dù đó chỉ là thính giác..
- Đến với Tràng Giang của Huy Cận ta như khám phá.
- được những nỗi niềm nhà thơ ký thác, nghe được tiếng thở dài bất lực của thi nhân trước cảnh nước nhà đang chìm trong khói lửa và tăng tốc của chiến tranh, sự kết hợp hài hòa giữa cổ điển và hiện đại, sử dụng nhiều thi liệu trong thơ cổ, từ ngữ giản dị giàu hình ảnh, tất cả đã được làm nên thành công cho Tràng Giang của Huy Cận.