« Home « Kết quả tìm kiếm

Về phương pháp tiếp cận nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành


Tóm tắt Xem thử

- nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành.
- Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Anh - Mỹ, Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội, Đường Phạm Văn Đồng, Cầu Giấy, Hà Nội, Việt Nam.
- Bài báo đề cập vấn đề phương pháp tiếp cận nghiên cứu ngôn ngữ chuyên ngành (NNCN) từ góc độ phong cách ngôn ngữ và ngữ vực (hay phong cách chức năng ngôn ngữ).
- Bài báo lý giải các định hướng tiếp cận NNCN từ góc độ ngữ vực và từ góc độ phong cách chức năng là các cách tiếp cận cùng một hiện tượng ngôn ngữ, nhưng từ góc độ người sản sinh ngôn ngữ (người nói/người viết) hay từ góc độ của ngữ cảnh, dưới tác động áp lực của các yếu tố ngữ cảnh..
- Với tư cách một phong cách ngôn ngữ (có thể gọi chung là phong cách ngôn ngữ khoa học), NNCN có thể được tiếp cận ở các khuynh hướng đơn thể, nhị thể, đa thể.
- Với tư cách một phong cách chức năng (ngữ vực), ngôn ngữ chuyên ngành có thể được tiếp cận từ các cấp độ vĩ mô (trường, thức, không khí) và vi mô (tuyến tính, tầng bậc và phạm trù)..
- Ngôn ngữ trong sử dụng, theo Brown (1985), thực hiện hai chức năng chính: chức năng tương tác và chức năng giao dịch.
- NNCN sử dụng hệ thuật ngữ của Brown, là ngôn ngữ giao dịch.
- Trong Anh ngữ học, loại ngôn ngữ này được biết đến dưới các tên gọi như: Tiếng Anh Nghiệp vụ (Professional English, PE), Tiếng Anh cho các mục tiêu nghề nghiệp (English for Occupational Purposes, EOP), Tiếng Anh cho các mục tiêu chuyên ngành (English for Specific Purposes, ESP), Tiếng Anh cho các mục tiêu học vấn (English for Academic.
- trong sử dụng ngôn ngữ hình thành một mảng đáng chú ý trong một số lĩnh vực nghiên cứu như ngôn ngữ học tâm lý, phương pháp dạy học, phương pháp thiết kế chương trình, giáo trình..
- Phong cách chức năng và phong cách.
- Khi chúng ta quan sát hoạt động ngôn ngữ ở các ngữ cảnh khác nhau, chúng ta phát hiện có các khác biệt trong lựa chọn kiểu loại ngôn ngữ cho phù hợp với kiểu loại ngữ cảnh trong đó nó được sử dụng”..
- Từ điển ngôn ngữ học ứng dụng của định nghĩa ngữ vực là:.
- Từ điển cũng nói rõ, phong cách là:.
- (1) Biến thể ngôn ngữ trong hoạt động nói hoặc viết của một người nào đấy.
- Phong cách thường biến đổi từ suồng sã sang trang trọng tùy theo loại ngữ cảnh, loại người hay cử tọa được tiếp xúc, địa điểm, chủ đề được thảo luận, v.v.
- Một phong cách nhất định nào đó, ví dụ phong cách trang trọng hay phong cách khẩu ngữ, đôi khi còn được gọi là biến thể phong cách (stylistic variety)..
- (2) Cách thức sử dụng ngôn từ của một người cụ thể nào đấy ở mọi nơi mọi lúc hay cách thức nói năng dưới dạng khẩu ngữ hay bút ngữ tại một thời điểm hay giai đoạn nào đấy, ví dụ phong cách của Dickens, phong cách của Shakespeare, phong cách viết thế kỷ XVIII..
- Từ điển cũng nói rõ một số nhà ngôn ngữ dùng thuật ngữ ngữ vực để chỉ biến thể phong cách trong khi một số nhà ngôn ngữ học khác phân biệt rất rạch ròi giữa phong cách và ngữ vực..
- Các nhà ngôn ngữ học thuộc Khoa Ngôn ngữ học và Anh ngữ hiện đại thuộc Đại học Tổng hợp Lancaster (Anh), Leech and Shore [2], đề nghị một giải pháp “không nên quá giáo điều” trong sử dụng thuật ngữ phong cách, vì..
- cách đã bị định nghĩa quá nhiều và lịch sử các tư tưởng ngôn ngữ chất đầy rác thải của các định nghĩa không thành công trong việc gắn cho nó (phong cách) một nghĩa chính xác tuyệt đối.
- Những nỗ lực như vậy chẳng qua chỉ làm méo mó thêm cách hiểu về phong cách”..
- Các nhà nghiên cứu này đề nghị một cách hiểu chung về phong cách như sau: (i) Phong cách là cách thức trong đó ngôn ngữ được sử dụng, có nghĩa là, phong cách thuộc về parole chứ không thuộc về langue.
- (ii) Phong cách gồm trong nó các phương thức lựa chọn ngôn từ từ repertoire của ngôn ngữ.
- có nghĩa là có phong cách chấp nhận sự giải nghĩa có phong cách không chấp nhận sự giải nghĩa và sự cảm nhận văn bản phụ thuộc phần lớn vào trí tưởng tượng sáng tạo của người đọc, v.v....
- Cách lý giải về phong cách của Leech and Shore, dù nghiêng về phong cách nghệ thuật, có điểm tương đồng với các nhận định của các tác giả của Dẫn luận ngôn ngữ và cho thấy cách lý giải của các Từ điển Ngôn ngữ học ứng dụng là có cơ sở.
- Trong Dẫn luận ngôn ngữ, phong cách và ngữ vực được phân biệt như sau:.
- “Trong khi phong cách (style) là các biến thể ngôn ngữ bị quy định chủ yếu bởi cách xử lý ngôn ngữ của người nói đối với người nghe/người đọc, đối với chủ đề hoặc đối với mục đích của giao tiếp, ngữ vực (register) là thuật ngữ được dùng cho một biến thể ngôn ngữ bị quy định bởi chủ đề.
- Thông thường, việc chuyển sang một ngữ vực nào đó bao giờ cũng liên quan đến việc chuyển sang một hệ thống các thuật ngữ liên quan đến chủ đề đang bàn, và có thể, cả các cấu trúc cú pháp, như trong ngôn ngữ luật” (Fromkin, Holt, Rhinehart [3])..
- (như trong quan niệm của các tác giả Từ điển), nghĩa là liên quan đến chủ thể của hoạt động giao tiếp), thì đó là phong cách.
- Cũng hiện tượng ngôn ngữ đó, nếu xét từ góc độ lãnh địa sử dụng, chủ đề, ngữ cảnh không gian và thời gian, nghĩa là xét từ góc độ các yếu tố khách quan chi phối quá trình giao tiếp, thì đó là ngữ vực.
- Ngôn ngữ chuyên ngành: Phong cách.
- Nói cách khác, biên giới giữa phong cách và ngữ vực là một biên giới mang tính tương đối, tượng trưng.
- Điều thú vị là việc quy phong cách về với sự lựa chọn ngôn từ của người sử dụng ngôn ngữ là một sự quay ngược lại với quan niệm ban đầu về phong cách của các nhà nghiên cứu văn học: Văn tức là người (tiếng Latinh: Stilus virum arguit, tiếng Anh: Style proclaims the man).
- cũng ghi nhận điều này khi ông viết trong cuốn Discourse rằng nghiên cứu diễn ngôn là ngành nghiên cứu mới với một hệ thống thuật ngữ cũ..
- Trong một công trình nghiên cứu chung, Leech and Shore [2] đã đưa ra một tổng luận về sự vận động của khái niệm phong cách trong nửa sau thế kỷ XX.
- nghiên cứu về phong cách cuối thế kỷ XX cho thấy ba khuynh hướng chính:.
- Giá trị phong cách nằm ngay trong giá trị nội dung được diễn đạt..
- Đây là khuynh hướng được các nhà nghiên cứu hành vi ngôn ngữ (cụ thể, hành vi ngôn ngữ gián tiếp) cổ vũ.
- Giá trị phong cách nằm trong cách lựa chọn hình thức diễn đạt của người sử dụng ngôn ngữ.
- phong cách không nằm trong nội dung.
- Thuyết hành vi ngôn ngữ mới xuất hiện, và trở nên phổ biến từ những năm 1960, nhưng nếu truy đến cội nguồn, một cách nghĩ tương tự đã có từ thời Khai sáng ở Anh, khi người ta cho rằng phong cách là “cái áo của tư tưởng” (dress of thought), là cái cho thấy cách thức (the how) diễn đạt tư tưởng..
- Khuynh hướng này nghiên cứu phong cách từ góc độ chức năng.
- Theo khuynh hướng này, ngôn ngữ thực hiện một số các chức năng khác nhau và bất kỳ một mẩu ngôn ngữ nào trong sử dụng cũng đều là kết quả của sự lựa chọn trên nhiều cấp độ chức.
- Nói cách khác, các nhà “đa thể luận” không hài lòng với việc chia ngôn ngữ ra thành nội dung và hình thức như các nhà nhị thể luận đã làm.
- Quá trình sử dụng ngôn ngữ liên quan đến các vấn đề Nói cái gì? (chức năng tư tưởng), Nói như thế nào? (chức năng ngôn bản) và Nói với ai? (chức năng liên nhân).
- Trong cả ba bình diện chức năng, sự lựa chọn của người sử dụng ngôn ngữ dụng học triển khai và cho thấy phong cách sử dụng ngôn ngữ..
- Các bình diện (A), (B) và (C), theo Hallday, không hình thành một cơ chế tầng bậc.
- (i) Việc nghiên cứu NNCN hoàn toàn có thể xuất phát từ các chủ thể của quá trình giao tiếp, trên cơ sở phân tích sự lựa chọn phong cách trên các bình diện chức năng tư tưởng, chức năng ngôn bản và chức năng liên nhân.
- Những nghiên cứu như vậy là những.
- nghiên cứu lấy phong cách làm xuất phát điểm.
- Nói chính xác hơn, sự lựa chọn phong cách của người sử dụng ngôn ngữ không đơn thuần là chọn chiếc áo của tư tưởng, mà là chọn chức năng.
- Chúng tôi gọi các nghiên cứu như vậy là nghiên cứu phong cách chức năng..
- (ii) Sự lựa chọn của người sử dụng ngôn ngữ trên ba cấp độ chức năng, trong môi trường giao tiếp chéo văn hoá là cơ sở để hình thành cơ chế văn hoá của diễn ngôn.
- Cơ chế văn hoá của diễn ngôn là vấn đề được các nhà nghiên cứu đối chiếu giao tiếp Đông - Tây quan tâm từ lâu, nhưng phạm vi đối chiếu mới chỉ xoay quanh Trung Quốc và Nhật Bản, các đối tác kinh tế chính của họ ở Đông Á.
- Các nghiên cứu đối chiếu về cơ chế văn hoá của diễn ngôn chuyên ngành tiếng Việt với các thứ tiếng khác còn dừng lại ở con số hết sức ít ỏi..
- Ngôn ngữ chuyên ngành: Ngữ vực.
- Trên kia, chúng tôi đã trình bày: NNCN có thể được nghiên cứu từ góc độ ngữ vực, nghĩa là nghiên cứu lấy xuất phát điểm từ ngữ cảnh giao tiếp.
- Một số nhà nghiên cứu coi các nhân vật giao tiếp (người nói, người nghe), cùng những thứ khác là các bộ phận (các “toạ độ”) của ngữ cảnh.
- Nghiên cứu NNCN lấy xuất phát điểm từ người sản sinh diễn ngôn là nghiên cứu phong cách, như đã trình bày trên..
- Trong nghiên cứu NNCN từ góc độ ngữ vực, NNCN cần được xem xét ở các cấp độ vĩ mô và vi mô, trong đó cấp độ vĩ mô quy định cấp độ vi mô.
- trường, thức và không khí diễn ngôn.
- Cơ chế vi mô không có nghĩa là cơ chế nhỏ bé mà là cơ chế tổ chức nội tại trong nội bộ diễn ngôn..
- Cơ chế vĩ mô.
- Ba yếu tố hình thành cơ chế vĩ mô của NNCN là trường, thức, không khí..
- Ba bình diện: trường, thức, khí hình thành cơ chế tương tác giữa người sản xuất, người tiêu thụ, ngữ cảnh sử dụng ngôn ngữ với bản thân ngôn phẩm.
- Vai trò của cơ chế vĩ mô là quy định cơ chế vi mô của ngôn phẩm, nghĩa là quy định cơ chế tổ chức nội bộ bên trong ngôn phẩm theo một phương thức khả dĩ đáp ứng được các sức ép của “thị trường” lên “sản phẩm” ngôn ngữ..
- Trường là lĩnh vực hoạt động trong đó ngôn ngữ được sử dụng như một phương tiện để hành động.
- Trường là kết quả là sự biểu hiện của sự lựa chọn của người sử dụng ngôn ngữ trên bình diện chức năng tư tưởng..
- Ngữ cảnh là cái nằm ngoài ngôn ngữ..
- Trường là cái phản ánh sự tác động của ngữ cảnh, nhân vật giao tiếp trên hoạt động của diễn ngôn..
- Các hằng số đó có thể là tỷ lệ thuật ngữ chuyên ngành được sử dụng trong diễn ngôn hoặc hình thức tổ chức phát ngôn, diễn ngôn..
- Thức là phương thức hiện thức hoá của diễn ngôn trong hoạt động.
- Nó là kết quả của sự lựa chọn của người sử dụng ngôn ngữ trên bình diện chức năng ngôn bản..
- Thường người ta hay nhắc đến hai phương thức chính của hoạt động ngôn ngữ:.
- Không nên nhầm thức với phong cách..
- Phong cách là thuật ngữ chỉ quan hệ giữa ngôn phẩm với người sản xuất ra nó (người nói = phong cách nói.
- người viết = phong cách viết).
- Thức là thuật ngữ chỉ sự phù hợp của phương thức hiện thức hoá diễn ngôn dưới sức ép của cả ngữ cảnh và người sử dụng ngôn ngữ.
- Cùng là ngôn ngữ nói, nhưng nói chuyện điện thoại cần một phương thức khác với nói chuyện thông thường hay nói chuyện hội nghị, v.v.
- Còn trong các ngữ cảnh vừa nói, nếu “nhà sản xuất” ngôn ngữ vẫn là một người thì phong cách có thể vẫn là một.
- Không khí là nơi hiện thực hoá các quyết định lựa chọn về chức năng liên nhân của người sử dụng ngôn ngữ..
- Cơ chế vi mô.
- Cơ chế vi mô không phải là cơ chế “nhỏ”.
- mà là cơ chế chuyển giao (hay còn gọi là giao.
- Chính trong cơ chế vi mô của ngôn phẩm, người ta quan sát thấy sự vận động của diễn ngôn theo các cơ chế.
- Cơ chế tuyến tính Cơ chế tầng bậc Cơ chế phạm trù.
- Nói cách khác, trong cơ chế vi mô của diễn ngôn với tư cách là một đơn vị thông báo hoàn chỉnh, có thể thấy các khúc đoạn:.
- Diễn ngôn = Ngữ dụng 1 + Ngữ dụng 2 + Ngữ dụng 3 + Ngữ dụng n..
- Một vài nghiên cứu gần đây về diễn ngôn kinh tế cho ta thấy điều đó..
- Trên đây chúng tôi đã làm rõ: NNCN có thể được tiếp cận nghiên cứu từ góc độ phong cách, trong liên quan với người sử dụng ngôn ngữ.
- Trong trường hợp này, sự nghiên cứu được xây dựng trên các quyết định lựa chọn của “nhà sản xuất” ngôn ngữ trên các bình diện chức năng chủ yếu: chức năng tư tưởng, chức năng ngôn bản và chức năng liên nhân..
- Các đặc điểm văn hoá của nhà sản xuất ngôn ngữ giúp hình thành cơ chế văn hoá của diễn ngôn.
- Nói cách khác, tiếp cận nghiên cứu cơ chế văn hoá của diễn ngôn chuyên ngành là tiếp cận từ góc độ người sử dụng, từ góc độ phong cách..
- NNCN có thể được tiếp cận nghiên cứu từ góc độ ngữ vực, trên các bình diện:.
- trường, thức, không khí và tác động quyết định của trường, thức, khí trên cơ chế vi mô của diễn ngôn chuyên ngành.
- Nói cách khác NNCN có thể được tiếp cận nghiên cứu từ góc độ hoạt động chuyên môn..
- Giữa hai cách tiếp cận đều có những điểm chung, như trường là nơi thể hiện các kết quả của sự lựa chọn trên bình diện chức năng tư tưởng, thức là kết quả của sự lựa chọn trên bình diện chức năng ngôn bản và không khí là kết quả của sự lựa chọn trên bình diện chức năng liên nhân của người sử dụng ngôn ngữ..
- Trên đây chỉ là những ý kiến nghiên cứu ban đầu của tôi về cách tiếp cận nghiên cứu NNCN.
- Đất nước chúng ta đang trên đường hoà nhập kinh tế vào khu vực và thế giới, trên đường công nghiệp hoá và hiện đại hoá, việc nghiên cứu, đối chiếu ngôn ngữ sử dụng trong các lĩnh vực chuyên ngành là một đòi hỏi bức thiết, cho thấy nỗ lực chung của các nhà Việt ngữ học và ngoại ngữ học trong công cuộc chuyển mình của đất nước.