« Home « Kết quả tìm kiếm

Vì SAO CáC DOANH NGHIệP TƯ NHÂN Ở ĐồNG BằNG SÔNG CửU LONG PHảI THANH TOáN TIÊU CựC PHí?


Tóm tắt Xem thử

- VÌ SAO CÁC DOANH NGHIỆP TƯ NHÂN Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG PHẢI THANH TOÁN TIÊU CỰC PHÍ?.
- Doanh nghiệp tư nhân, hoàn cảnh, tác lực, tiêu cực phí (hối lộ).
- Mục đích của nghiên cứu này là tìm hiểu có hay không (nếu có) và làm thế nào sự khác biệt trong đặc điểm của doanh nghiệp (DN) và hoàn cảnh có ảnh hưởng đến sự khác biệt về tiêu cực phí (hối lộ) của doanh nghiệp ở đồng bằng sông Cửu Long – Việt Nam.
- Trong bài báo này, tác giả đã giải thích tại sao các doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi tác lực (bên trong và bên ngoài) phải thanh toán tiêu cực phí nhiều hơn các doanh nghiệp khác..
- Các nhân tố bên trong bao gồm quy mô và tuổi tác doanh nghiệp (thời gian hoạt động sản xuất kinh doanh).
- Dựa trên bộ số liệu ở cấp độ DN, tác giả tìm thấy đặc điểm DN (tuổi, quy mô) có ảnh hưởng đến xác suất thanh toán tiêu cực phí.
- Tương tự, sự khác biệt trong môi trường kinh doanh (mức độ cạnh tranh, chất lượng của chính quyền) có ảnh hưởng đến xác suất thanh toán tiêu cực phí của doanh nghiệp..
- Trong suốt những thập kỷ qua, số bài báo nghiên cứu về tham nhũng gia tăng đáng kể (Aguilera &.
- Hầu hết các nghiên cứu về tham nhũng đều có sử dụng số liệu thực chứng và so sánh chéo giữa các quốc gia.
- Xa hơn, nhiều nghiên cứu có cách tiếp cận vĩ mô, căn bản.
- Mặc dù hữu ích, nhưng các nghiên cứu lại đóng góp rất ít vào bản chất của hoạt động thanh toán tiêu cực phí ở mức độ riêng lẻ từng cá nhân hay tổ chức trong một quốc gia do tính chất phức tạp của việc tổng hợp dữ liệu.
- Thanh toán tiêu cực phí được hiểu trong bài báo này là.
- Mục tiêu của nghiên cứu này là giải thích sự khác biệt về tiêu cực phí giữa các doanh nghiệp (DN) trong cùng quốc gia, mà cụ thể là các DN tư nhân (DNTN) ở Đồng Bằng Sông Cửu Long (ĐBSCL).
- DNTN mà chúng tôi điều tra là doanh nghiệp ngoài quốc doanh bao gồm cả DNTN do một người chủ làm quản lý, công ty Trách nhiệm hữu hạn (TNHH), công ty Cổ phần, hộ gia đình.
- Dĩ nhiên tiêu cực phí ở quốc gia nào cũng có, không ít thì nhiều, tuy nhiên theo khảo sát của chúng tôi ở ĐBSCL thì chi phí này là khá cao so với kết quả DN tư nhân đạt được.
- Do đó, chúng tôi đã thực hiện điều tra xem DN nào ở ĐBSCL thanh toán tiêu cực phí và DN nào không.
- Mặc dù, tất cả DN đối mặt với các tác lực phải thanh toán tiêu cực phí, chúng tôi cho rằng DN có khác biệt trong cảm nhận khi phản ứng đối với các tác lực bên trong và bên ngoài.
- Nghiên cứu này như là một sự hưởng ứng cho lời kêu gọi nghiên cứu tham nhũng nhiều hơn ở cấp độ DN, và cũng đã được khuyến khích từ chủ đề hội thảo đặc biệt về tham nhũng trong tạp chí Academy of Management Review (2008).
- Nghiên cứu tham nhũng ở cấp độ DN tập trung vào chiến lược mà DN sử dụng nhằm tránh những ảnh hưởng tổn hại tiềm năng khi thâm nhập thị trường.
- Kết quả từ nghiên cứu này sẽ bổ trợ cho những nghiên cứu hiện thời bằng việc đưa ra các bằng chứng lý giải vì sao các tác lực bên trong và bên ngoài có thể giải thích xác suất thanh toán tiêu cực phí của DN..
- 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Dữ liệu.
- Nghiên cứu được tiến hành qua 03 giai đoạn (chuẩn bị, khảo sát mục tiêu và khảo sát trên diện rộng).
- Nhóm nghiên cứu đã liên lạc gần 1000 DN và chỉ thu được 606 bảng trả lời.
- chúng tôi đã loại tất cả các quan sát có giá trị khuyết.
- phương pháp này cũng áp dụng cho 06 quan sát của biến tiêu cực phí.
- Xác suất thanh toán tiêu cực phí được đo lường bởi một biến giả, có giá trị 1 nếu DN báo cáo có thanh toán một số lượng tiền mặt cho nhân viên công quyền để thực hiện hoạt động kinh doanh và 0 là ngược lại.
- Đo lường không bao gồm các hình thức khác của tiêu cực phí chẳng hạn như quà cáp, cái có lẽ cũng có giá trị tiền tệ.
- Trong bài viết, chúng tôi đo lường mức độ cạnh tranh dựa trên số đối thủ cạnh tranh trong cùng ngành nghề hay lĩnh vực kinh doanh theo báo cáo của đáp viên.
- Các nghiên cứu trước đây cũng đã xem xét số đối thủ cạnh tranh (theo cảm nhận) là một chỉ mục phù hợp (Barnett, 1997).
- Đo lường chất lượng của chính quyền theo điều kiện hiệu quả cũng phù hợp với các nghiên cứu trước đây (La Porta et al., 1999).
- Quy mô của DN được đo lường bằng số nhân viên làm việc thường xuyên tại DN (log).
- Ba tập hợp biến điều khiển được đưa vào mô hình.
- 3 KẾT QUẢ.
- (268) DN báo cáo là họ đã không thanh toán tiêu cực phí.
- Theo dữ liệu, số lượng tiền tiêu cực phí trung bình hàng năm của DN báo cáo có thanh toán là 30,05 triệu đồng.
- Nếu tính luôn cả DN báo cáo không có thanh toán tiêu cực phí thì số lượng thanh toán trung bình là 7,17 triệu đồng.
- số đối thủ cạnh tranh là 35,93.
- Một DN có duy nhất một lựa chọn giữa thanh toán hay không thanh toán tiêu cực phí cho nhân viên công quyền.
- Theo quan điểm tối ưu hóa hữu ích mong đợi (Svensson, 2003), một DN sẽ thanh toán tiêu cực phí nếu lợi ích mong đợi từ hành động này cao hơn so với lợi ích mong đợi từ việc không thanh toán.
- Trước khi phân tích hồi quy, chúng tôi đã thực hiện một số bước kiểm tra truyền thống để đạt được những ước lượng tin cậy..
- Xa hơn, chúng tôi đã kiểm tra sự bất đối xứng có thể xảy ra do bởi cộng tuyến giữa các biến bằng cách tính hệ số phóng đại.
- Để kiểm chứng có hay không mô hình logit là phù hợp, chúng tôi đã sử dụng phương pháp Hosmer-Lemeshow để kiểm định sự phù hợp của mô hình.
- Điều này cho thấy mô hình phù hợp tốt với dữ liệu.
- Thêm vào đó, trước khi chạy mô hình logit, chúng tôi đã kiểm tra có hay không việc tham gia thanh toán tiêu cực phí chịu ảnh hưởng bởi một tiến trình khác từ mức độ thanh toán được cho bởi giả thuyết là người chủ DN có tham gia thanh toán tiêu cực phí.
- Để đạt mục tiêu này, chúng tôi sử dụng mô hình Tobit-2 bao gồm 02 mô hình nhỏ: một là probit (hay logit) và còn lại là mô hình bình phương bé nhất (OLS)..
- Ý tưởng là nếu chúng tôi ước lượng mô hình phụ (OLS) và bỏ qua sự nối kết với mô hình phụ đầu tiên (probit/logit), các ước lượng có lẽ không bền vững(Cameron &.
- Tuy nhiên, kết quả từ mô hình Tobit-2 cho thấy không có sự kết nối giữa 02 giai đoạn do bởi giá trị Mills không có ý nghĩa (B = –51.61.
- Thật vậy, không có vấn đề bất đối xứng mẫu (sample selection) và chúng tôi kết luận rằng mô hình logit là lựa chọn phù hợp..
- Những tham số phù hợp khác nhau cho thấy mô hình phù hợp rất tốt với dữ liệu.
- .05), điều này cho thấy càng nhiều hơn số lượng đối thủ cạnh tranh, các DN càng có xu hướng thanh toán tiêu cực phí.
- Liên quan đến các tác lực bên trong, mô hình 4 cho thấy quy mô DN thật sự có mối quan hệ tỷ lệ thuận với xác suất thanh toán tiêu cực phí.
- Dữ liệu xác nhận mối quan hệ phi tuyến giữa tuổi DN và xác suất thanh toán tiêu cực phí.
- Bảng 1: Tương quan, trung bình và độ lệch chuẩn TBĐộ L.C Tiêu cực phí Trình độ giáo dục Tập huấn q.lý DNTN Cty TNHH Cty cổ phần Dịch vụ công – điện Nợ Thương mại Dịch vụ Quy mô DN (log Tuổi DN Cạnh tranh Chất lượng chính quyền p <.
- Bảng 2: Ảnh hưởng của tác lực bên trong và bên ngoài đến xác suất thanh toán tiêu cực phí DN.
- Đặc điểm DN.
- Quy mô DN (log .
- Tác lực bên ngoài.
- Cạnh tranh 0.00.
- Ngoài ra, chúng tôi còn thực hiện thêm 04 kiểm định robustness.
- Thứ hai, mặc dù các giá trị VIF thấp hơn mức giới hạn cho phép, chúng tôi áp dụng phương pháp tiếp cận trung bình (mean-centered) để giảm thiểu rủi ro đa cộng tuyến.
- Thứ ba, chúng tôi ước lượng lại các mô hình có đưa vào các biến tương tác giữa đặc điểm DN và đặc điểm hoàn cảnh.
- Đặc biệt là trường hợp như có hay không các DN quy mô nhỏ (micro-firms) có xu hướng thanh toán tiêu cực phí khi họ hoạt động trong một môi trường có tính cạnh tranh cao hay đối mặt với vấn đề chất lượng kém của chính quyền.
- Lý do thực hiện thêm các bước kiểm tra là nhằm đánh giá có hay không đặc điểm hoàn cảnh có ảnh hưởng đến sức mạnh hay chiều hướng tác động của đặc điểm DN lên xác suất thanh toán tiêu cực phí.
- Để thực hiện bước này, chúng tôi đã đưa vào một cặp biến tương tác giữa DN có quy mô nhỏ (micro-firms) với biến môi trường cạnh tranh và giữa biến DN có quy mô nhỏ và chất lượng của chính quyền.
- Chúng tôi cũng ước lượng mô hình với 03 biến tương tác, đó là, giữa DN nhỏ, cạnh tranh và chất lượng chính quyền.
- Điều này càng củng cố độ tin cậy cho cách tiếp cận đã được chọn để nghiên cứu ảnh hưởng trực tiếp của DN và đặc điểm hoàn cảnh trên xác suất thanh toán tiêu cực phí..
- Cuối cùng, chúng tôi phân tích lại ảnh hưởng của loại hình DN có quy mô nhỏ trên xác suất thanh toán tiêu cực phí.
- Như đã đề cập, chúng tôi đã tìm thấy một mối quan hệ thuận chiều tuy nhiên không có ý nghĩa ảnh hưởng của quy mô trên tiêu cực phí.
- Việc thảo luận đặc điểm cụ thể DN có quy mô nhỏ trên hối lộ có lẽ quan trọng vì phần lớn các DN ở ĐBSCL có quy mô (rất) nhỏ và vừa.
- Các DN này thường được sở hữu bởi các cá nhân hay gia đình, có ít tài sản, ứng dụng quy trình và kỹ thuật đơn giản, định hướng ngắn hạn, có phân khúc thị trường hẹp và nhu cầu thấp, thiếu kinh nghiệm quản lý (chẳng hạn, nghiên cứu tiếp thị, kỹ thuật dự báo) và nói chung có ít tham vọng để gia tăng quy mô.
- Với quy mô nhỏ, các DN không có khả năng tận dụng lợi thế kinh tế nhờ quy mô, bị hạn chế trong việc tiếp cận nguồn tài chính, và gặp.
- nhiều khó khăn khi đối đầu cạnh tranh với các DN lớn.
- Tóm lại, chúng tôi giả định là các DN nhỏ ít thanh toán tiêu cực phí so với các DN lớn.
- Để kiểm tra giả thuyết này, chúng tôi xây dựng một đo lường mới cho DN nhỏ bằng một biến giả: 1 nếu DN có ít hơn 10 nhân viên và 0 ngược lại.
- Kết quả hồi quy xác nhận giả thuyết DN (rất) nhỏ ít thanh toán tiêu cực phí hơn so với các DN khác (β = –.59, p <.
- Kết quả hồi quy của mô hình nghiên cứu đã xác nhận cho giả thuyết có liên quan đến hoàn cảnh bên ngoài và bên trong có ảnh hưởng đến hành vi thanh toán tiêu cực phí của DN ở ĐBSCL.
- Cụ thể, một DN hoạt động trong thị trường có mức độ cạnh tranh cao thì khả năng thanh toán tiêu cực phí được tiên đoán là dễ xảy ra hơn so với một DN hoạt động trong thị trường có mức độ cạnh tranh thấp..
- Hơn nữa, thanh toán tiêu cực phí để đổi lấy sự đối xử ưu ái hay những lợi ích khác còn là cơ hội để DN có thể nhấn chìm đối thủ cạnh tranh, duy trì lợi thế độc quyền, và cản trở những DN mới từ việc thâm nhập thị trường (Martin et al., 2007).
- Tương tự, nếu chất lượng phục vụ của chính quyền sở tại nơi DN hoạt động là yếu kém (như nạn quấy rối, tùy tiện, nhũng nhiễu, thủ tục hành chính rườm rà, chi phí hành chính cao) DN có lẽ có xu hướng thanh toán tiêu cực phí cao để vượt qua những rào cản.
- Chẳng hạn, một DN nhỏ có cấu trúc tổ chức đơn giản có lẽ ít thanh toán tiêu cực phí hơn so với các DN có quy mô lớn và cấu trúc tổ chức phức tạp.
- Lý do, một sự gia tăng về quy mô sẽ gia tăng mức độ phức tạp và tạo ra những khó khăn về kiểm soát hành vi lệch lạc, thông tin, và hợp tác (Baucus &.
- Ngược lại với DN có quy mô lớn, rủi ro phát giác hoạt động thanh toán tiêu cực phí trong các DN có quy mô nhỏ là cao.
- Ở một DN quy mô lớn, nhà quản lý có thể che dấu tốt hơn và có thể lạm dụng quá trình phi tập trung sức mạnh của việc ra quyết định tốt hơn (Vaughan, 1983).
- Do đó, xác suất bị vòi vĩnh thanh toán tiêu cực phí là thấp hơn..
- Cuối cùng, theo quan điểm về tác lực, các DN trẻ có xu hướng thanh toán tiêu cực phí hơn các DN đã thành lập lâu năm (Fjeldstad et al., 2009)..
- Đặc biệt hơn, kết quả cho thấy có mối quan hệ phi tuyến (hình chữ U) giữa tuổi tác DN và xác suất thanh toán tiêu cực phí.
- Khi DN trưởng thành, các tác lực xảy ra ở những năm đầu tiên dần biến mất và làm giảm nhu cầu thanh toán tiêu cực phí.
- Kết quả là các DN này sẽ đối mặt với những tác lực mới để sống còn và nhanh chóng cải thiện hiện trạng trong thị trường..
- Điều này cũng làm gia tăng xác suất thanh toán tiêu cực phí của DN khi nhân viên công quyền cũng gợi ý sự “bảo hộ” cho những rủi ro của thời kỳ trưởng thành và những tình huống cạnh tranh trong thị trường..
- Cuối cùng, mặc dù đã rất cố gắng nhưng nghiên cứu này không thể không có giới hạn.
- Đầu tiên, kết quả nhấn mạnh ảnh hưởng của quy mô trên xác suất thanh toán tiêu cực phí chỉ được xác nhận cho loại hình DN có quy mô nhỏ (ít hơn 10 nhân viên)..
- Đi cùng với các nghiên cứu khác (chẳng hạn, Svensson, 2003.
- Vaughan, 1983), chúng tôi sử dụng quy mô như một thay thế cho các chiều hướng về cấu trúc.
- Dĩ nhiên, đây là vấn đề dễ gây phát sinh các tranh luận có liên quan đến quy mô..
- Nghiên cứu trong tương lai sẽ phân tích các mô hình phức tạp hơn các mô hình được trình bày trong bài báo này.
- Để gia tăng mức độ tổng quát hóa, các nhà nghiên cứu có thể lập lại nghiên cứu này ở các quốc gia có.
- Nghiên cứu trong tương lai có thể phát triển thêm dữ liệu panel và như thế sẽ cho phép một phân tích năng động hơn về hiện tượng tham nhũng.
- Cuối cùng, đo lường tiêu cực phí chỉ có liên quan đến tiền mặt.
- Tuy nhiên, tương tác giữa người quản lý DN và nhân viên công quyền có thể có liên quan đến các loại hình khác của tiêu cực phí (chẳng hạn, quà cáp, tiệc tùng,...)..
- Dữ liệu mới với những đo lường mới cho phép kiểm chứng ảnh hưởng của đặc điểm DN và hoàn cảnh trên những loại hình khác nhau của tiêu cực phí.