« Home « Kết quả tìm kiếm

VỊ TRÍ CỦA NHÀ THỰC HÀNH –NGHIÊN CỨU


Tóm tắt Xem thử

- VỊ TRÍ CỦA NHÀ THỰC HÀNH –NGHIÊN CỨU VỊ TRÍ CỦA NHÀ THỰC HÀNH –NGHIÊN CỨU Giáo sư Luc ALBARELLO.
- Càng ngày càng có nhiều chủ thể xã hội trong các tổ chức khác nhau bắt tay vào con đường nghiên cứu.
- Vị trí của những nhà thực hành- nghiên cứu này không mấy thuận lợi vì họ phải dung hòa được hai cách tư duy khác nhau và trong một số trường hợp có thể trở thành mâu thuẫn.
- Chính sự kết nối giữa mô hình hành động và mô hình nghiên cứu là chủ đề của tham luận này.
- Cơ sở thực nghiệm của tham luận là việc phân tích 120 khóa luận nghiên cứu về khoa học giáo dục của Đại học công giáo Louvain (UCL)..
- Nhà thực hành tư duy hay nhà thực hành- nghiên cứu Trước hết chúng tôi muốn phân biệt phương pháp tiến hành của một nhà thực hành tư duy với phương pháp tiến hành của một nhà thực hành- nghiên cứu.
- đó là nét khác biệt cơ bản giữa hoạt động tư duy và hoạt động nghiên cứu.
- Ở đây, không phải thực tiễn của chủ thể là đối tượng nghiên cứu mà là những kiến thức tích lũy được về một khía cạnh đặc biệt của phạm vi nghiên cứu.
- Sự phân biệt giữa nhà thực hành tư duy và nhà thực hành nghiên cứu mang tính quyết định ở nhiều mặt, đặc biệt là về phương diện đào tạo và hướng dẫn.
- Người ta hướng dẫn không giống nhau một chủ thể tự cáo giác và tìm những điểm yếu trong thực tiễn của chính mình với một chủ thể bắt tay vào nghiên cứu một hiện tượng nổi bật ở cơ sở làm việc của mình..
- nghiên cứu của các nhà thực hành-nghiên cứu được thực hiện ở các cơ sở xã hội nơi mà họ trưởng thành về văn hóa và chuyên môn.
- Đó là trường hợp của một người làm công tác xã hội nghiên cứu về thực tiễn và biểu hiện của những người có liên quan về mặt xã hội đối với một công cụ tích hợp mới .
- trường hợp một giáo viên nghiên cứu về quan sát của giáo viên trước hiện tượng lưu ban .
- trường hợp một nhà thực hành trong phòng nghiên cứu của một nghiệp đoàn phân tích thực tiễn và thông tin trong tổ chức của mình, trường hợp một chuyên gia đào tạo nghiên cứu về động cơ của người không có công ăn việc làm tham gia vào một chương trình đào tạo mới.
- Trong tất cả những trường hợp này, nhà thực- hành nghiên cứu đều ở vị trí liên quan đến cơ sở của mình.
- Tuy nhiên những nhà thực hành này đôi khi lại đóng một vai trò khác, thực hiện một chức năng khác, chức năng phân tích và nghiên cứu.
- Nhà thực hành nghiên cứu được đặt ở trục « nhập cuộc và giữ khoảng cách.
- Sự nhập cuộc như là một phương tiện dẫn đến thành công Chúng ta thấy rằng những nhà thực hành- nghiên cứu ở vị trí tham gia trong cơ sở của họ .
- Thông thường, với tư cách là thành viên của một tổ chức, một công đoàn, một đảng phái, một phong trào, những nhà thực hành nghiên cứu này thường gắn suy nghĩ của họ với một hành động được xây dựng dựa trên các ý tưởng .
- Khi những nhà thực hành gia nhập vào quá trình nghiên cứu, sự tham gia của họ tạo nên sự phong phú, và độc đáo về mục đích nghiên cứu.
- Vì làm việc lâu năm trong một tổ chức nên nhà thực hành- nghiên cứu ý thức được sự thay đổi tuyệt diệu trong quản lý.
- Đó là vì anh ta/chị ta thực hiện một nhiệm kỳ tại cơ sở và quan sát sự đối lập không mang tính xã hội của những người liên quan đến cách mà nhà thực hành nghiên cứu đã tự chất vấn về khả năng từ bỏ thực tiễn tham dự.
- Trong một vài nghiên cứu khoa học thực hiện bởi các nhà thực hành -nghiên cứu, sự thâm nhập của họ đã chỉ ra những khoảng tối cần được biết đến và xem xét.
- Do đó, gắn nghiên cứu với những cơ sở xã hội tạo nên một phương tiện có giá trị khi thực hiện nghiên cứu.
- Những nghiên cứu xã hội về sự sai lệch » của tác giả Becker (1985), Chapoulie chia sẻ cách nhìn nhận này.
- Từ rất lâu rồi, Hughes đã nhận xét rằng các quan hệ của nhà nghiên cứu ở cơ sở với chủ đề nghiên cứu quyết định khả năng thu nhận những kiến thức quan trọng của họ.
- Nhưng hiệu quả này còn phụ thuộc vào khả năng hiểu biết tinh tế thế giới tượng trưng của các khách thể nghiên cứu.
- Vì vậy, phần lớn các nghiên cứu có giá trị dựa trên công việc của cơ sở là việc những nhà xã hội học đã duy trì với chủ thể một mối quan hệ lâu dài, từ trước nghiên cứu (nghiên cứu của Becker trên những nhạc sĩ chơi nhạc jazz là một ví dụ.
- Trong phần lớn các luận văn được phân tích, kiến thức về cơ sở xã hội đã đem lại cho những nhà thực hành -nghiên cứu một phương tiện dẫn đến thành công hơn là một điều bất lợi và họ có thể được hưởng « lợi thế của sự quen thuộc.
- Tiêu chí hành động, tiêu chí nghiên cứu Trong hành động, quan điểm luôn là chuẩn mực và có miêu tả cụ thể.
- Vậy các tiêu chí thực hiện một nghiên cứu khoa học rất đa dạng .
- giá trị trung tâm của nghiên cứu thường là một điều nghi ngờ hơn là một sự chắc chắn.
- Sự xuyên tạc » cũng là một thành tố cấu thành của mô hình này, có nghĩa là nhà nghiên cứu có nhiệm vụ tìm cách biến đổi những kết quả thu được từ những nghiên cứu trước.
- Theo ông, sự khác biệt giữa nhà thực hành- nghiên cứu trong định nghĩa và nhà thực hành- nghiên cứu trong hoạt động là quan trọng.
- Nếu chúng ta xét đến phẩm chất của một nhà thực hành- nghiên cứu theo định nghĩa, chúng ta có thể trả lời một cách tích cực cho câu hỏi đặt ra.
- Đúng vậy, nhà thực hành có thể được định nghĩa thông qua sự trùng khớp của nhiều mặt vì cùng một lúc họ là nhà thực hành và nghiên cứu.
- Tuy nhiên, khi xét đến phẩm chất thông qua hoạt động, chúng ta sẽ nói rằng nhà thực hành không thể đảm đương cùng một lúc vai trò nghiên cứu và hành động trong cùng một hoạt động, bởi vì các công cụ, cách thức, các lý thuyết được sử dụng trong nghiên cứu và trong hoạt động không giống nhau.
- Giữ khoảng cách đối với đối tượng Khái niệm « giữ khoảng cách » muốn nói đến khả năng lựa chọn một khoảng cách về mặt tình cảm đối với đối tượng nghiên cứu.
- Điều này có nghĩa là các nhà thực hành- nghiên cứu có thể tiến hành một nghiên cứu hoàn toàn tự do về mặt trí tuệ đối với đồng nghiệp và đối với thứ bậc của họ.
- Một số nhà thực hành nghiên cứu có thể đặt ra câu hỏi.
- Có những trường hợp nhà thực hành bị liên lụy tới mức không thể lựa chọn một khoảng cách phê phán cần thiết đối với hoạt động nghiên cứu..
- Đặt nghiên cứu của họ trong một bối cảnh có tổ chức và có thời gian.
- Những nhà thực hành khởi sự nghiên cứu của họ trong khuôn khổ một tổ chức.
- Điều này có nghĩa là ban điều hành lựa chọn một vị trí cụ thể để tất cả mọi người có liên quan được biết rằng một nghiên cứu đã được quyết định và giao phó đặc biệt cho một nhà thực hành.
- Trong phần lớn các nghiên cứu mà chúng tôi đã xem xét, theo nhiệm kỳ và các khái niệm của nhiệm kỳ này đều được các thành viên có liên quan trong tổ chức biết đến.
- Trong một số tình huống, nhà tài trợ cho nghiên cứu là những nhà cầm quyền, họ tài trợ cho những thiết bị đánh giá.
- Nhà nghiên cứu thực hành có thể có những giằng xé giữa việc tìm kiếm các tri thức phê phán với mong muốn được nhận viện trợ cho tổ chức.
- Nếu những nghiên cứu này không thực hiện được, cầu ý thức về các rủi ro có thể gặp phải bằng cách đặt câu hỏi.
- Liệu nhà thực hành ngiên cứu có thể thực hiện được nghiên cứu với sự tự do về trí tuệ.
- Tất cả mọi nghiên cứu được xem xét đều cần những phương tiện và chi phí .
- Những trách nhiệm của ban tổ chức và của nhà nghiên cứu được xác định, biết rõ và hợp lý.
- Một câu hỏi phụ được đặt ra khi những nhà thực hành- nghiên cứu đối diện với sự tham gia của các thành viên các cấp ở những thời điểm khác nhau trong quá trình nghiên cứu.
- Người này phải nhận ra mong muốn chung của tổ chức bằng cách duy trì khả năng tự chủ của nhà thực hành nghiên cứu.
- Nếu điều này không có được, nếu sức ép của ban giám đốc quá lớn, cần phải coi rằng quá trình làm nghiên cứu khoa học không thể thực hiện được.
- Thậm chí một bản ghi nhận tiêu cực khi có sự cố có thể gọi là một nghiên cứu « kiếm cớ » với mục đích cung cấp chứng cứ cho chủ thể quyết định để hợp thức hóa một lựa chọn chiến lược.
- Nghiên cứu giả này không được xem là khám phá khoa học.
- Trong những tình huống khác nhau này, nhà thực hành nghiên cứu chỉ có thể tham gia khi những nghi ngờ bị chỉ ra liên quan đến tính khoa học của quy trình và tính hợp lý của công việc trong cuộc chơi của chủ thể.
- Cuối cùng, việc chia pha trong quá trình nghiên cứu (lịch theo hoàn cảnh) cũng phải là chủ đề của một cuộc thương thuyết và một sự đồng ý từ trước.
- Mọi nghiên cứu đều phải xác định thời gian.
- thời gian cần cho việc xây dựng cụ thể mục đích nghiên cứu (mục đích tường minh, khung lý thuyết, giả thuyết), thời gian thu thập số liệu, xử lý số liệu, đọc kết quả, phân tích kết quả cũng như viết bản tổng kết..
- Vị trí của chủ thể ở cơ sở trong việc xây dựng giả thuyết Một số nhà thực hành-nghiên cứu mong muốn dành vị trí trung tâm cho các chủ thể của cơ sở để gắn họ vào quá trình xây dựng giả thuyết nghiên cứu.
- Đó là những nghiên cứu đóng góp, thuật ngữ gần của nghiên cứu-hoạt động.
- Ý kiến của chủ thể ở cơ sở có vị trí trung tâm và quyết định trong quá trình nghiên cứu ít nhất ở hai mức độ sau.
- Trước hết, bước đầu của quá trình, nhà thực hành nghiên cứu lắng nghe ý kiến ở cơ sở .
- Theo cách này, các chuyên gia vẫn ở vị trí trung tâm của nghiên cứu khoa học xã hội.
- đóng vai trò là người tạo nguồn và trực tiếp hơn là người trợ lý nghiên cứu.
- Đây là trường hợp mà các nghiên cứu thực hiện bởi những nhà thực hành- nghiên cứu dẫn đến các đề xuất hành động : theo cách này những nhà thực hành nghiên cứu xuất phát từ việc phân tích cơ sở và kiến thức gom góp từ một trong những khía cạnh của nó để quay trở lại cơ sở xã hội đó.
- Câu hỏi được đặt ra là liệu các kết quả nghiên cứu có thực sự được tổ chức, cơ sở, và các chủ thể nhìn nhận.
- Quy trình này không tự động mặc dù các kết quả nghiên cứu thu được một cách nghiêm túc, theo một trình tự khoa học có thể trở thành (hoặc khởi đầu) các công cụ bổ sung lợi ích cho hoạt động xã hội.
- Trong quy trình nghiên cứu, nhà thực hành - nghiên cứu giúp thực hiện sự diễn giải này bằng các kết luận đưa ra.
- Một mô hình có tổ chức sẵn sàng tiếp nhận kết quả nghiên cứu và lựa chọn một vị trí thuận lợi cho việc đổi mới là mô hình của một cấu trúc linh hoạt.
- Những nghiên cứu xã hội cùng hướng về một ý tưởng là các đặc tính cơ bản của những tổ chức đặc biệt để thực hiện mô hình xoáy trong quản lý sự đổi mới và để tạo thuận lợi cho việc hình thành một cách có hiệu quả những đổi mới (đó là sự xuất hiện lần đầu tiên hay là một sự truyền bá) một mặt là những đặc tính phân quyền, cởi mở, linh hoạt và mặt khác là đặc tính của cơ quan » (174).
- sự phân cực các chủ thể đến một nghiên cứu có chất lượng về các dịch vụ.
- Nếu bối cảnh có tổ chức thuận lợi cho việc truyền bá các kết quả nghiên cứu, điều quan trọng là nhà thực hành nghiên cứu phải luôn sẵn sàng làm cho nghiên cứu được tăng thêm giá trị đối với những chủ thể chiến lược và các cấp bậc.
- Khả năng thuyết phục, niềm tin vững chắc góp phần truyền bá và bảo vệ những kết quả nghiên cứu.
- Sự thích ứng các kết quả nghiên cứu bởi chủ thể Trong những nghiên cứu được xem xét ở đây, việc « quay trở lại cơ sở » có thể tồn tại dưới nhiều dạng và sự thích ứng các kết quả nghiên cứu ở cơ sở nói chung (hoặc bởi tổ chức đã là đối tượng nghiên cứu hoặc tạo nên một bối cảnh ở đó mục đích nghiên cứu được xác định) và rộng hơn là những chủ thể có liên quan được thực hiện bằng nhiều cách khác nhau, với một cường độ không giống nhau.
- Sự thích cao Trong trường hợp thích ứng cao, sản phẩm nghiên cứu được thích ứng ngay bởi chủ thể của cơ sở.
- Đó là đối tượng của những bài tổng hợp trên báo chí của trào lưu nghiên cứu hoặc của tổ chức.
- Trong những điều kiện thuận lợi, những nhà thực hành - nghiên cứu thực hiện nghiên cứu, trình bày, trao đổi các kết quả.
- Các viên chức hoạt động xã hội càng biết đến những kết quả nghiên cứu trong lĩnh vực của họ, càng nhiều quyết định thích đáng được lựa chọn, những phương hướng hành động mới xuất hiện, những cái được mất nổi lên.
- Trong phần lớn các luận văn và nghiên cứu đã xem xét, những giả thuyết cụ thể được kiểm tra, các cơ sở khoa học được thích hợp hóa hoặc đem ra tranh cãi, các khái niệm được làm cho tinh tế.
- Không hiếm trường hợp có những biểu hiện nghi ngờ cực đoan đối với các kết quả nghiên cứu.
- Sự không thích ứng Có thể xảy ra trường hợp nghiên cứu chỉ ra sự lộn xộn trong thực tiễn của một số chủ thể và những người này muốn che dấu các kết quả đó.
- Một số nhà thực hành- nghiên cứu đã vạch trần những chiến lược của các nhóm xã hội, chỉ ra được cách suy nghĩ, xác định được cách thể hiện, những mức độ không thỏa mãn khó chấp nhận tại các cơ sở.
- Các cơ quan đóng lại, các cơ sở tự bảo vệ mình và từ chối xuất bản các kết quả nghiên cứu của đề tài.
- con đường hướng đến sự học có tổ chức nhằm tiếp nhận những kết quả nghiên cứu (và vì thế tiếp nhận những kiến thức mới xuất phát từ đó) và thực hiện dưới dạng một quy trình phức hợp bao gồm sự chấp nhận rủi ro, sự quản lý không chính thức, thậm chí hỗn loạn và sự ghi nhớ kiến thức (BOUSSARD : 330).
- Nhà thực hành nghiên cứu và sự phát triển cá nhân Chúng ta vừa xem xét một cơ sở xã hội phản ứng như thế nào trước những kiến thức mới thu được từ các nghiên cứu và các mức độ tiếp nhận khác nhau những kiến thức này.
- Những nhà thực hành nghiên cứu này thực ra đã huy động một loạt các kỹ năng.
- Tại sao trở thành nhà nghiên cứu khi chúng ta là chủ thể, điều này có ý nghĩa gì.
- Một câu hỏi tương tự có thể đặt ra cho những nhà thực hành nghiên cứu liên quan tới sự hội nhập trong nghề nghiệp.
- Một số khác tự hỏi liệu công việc họ đảm nhiệm và vị trí của họ trong hệ thống có cho phép họ khởi đầu một nghiên cứu và hoạt động này giữ vị trí như thế nào đối với các hoạt động chuyên nghiệp khác và đối với những chủ thể khác.
- cũng làm xuất hiện ở một số nhà thực hành nghiên cứu một câu hỏi phức tạp về năng lực cá nhân để thực hiện một nghiên cứu đúng kỳ hạn và về những kiến thức sẵn có để thực hiện nó.
- Những câu hỏi cá nhân này được gom góp lại trong suốt quá trình nghiên cứu.
- Làm nghiên cứu cũng ảnh hưởng đến cách nhà thực hành nghiên cứu nhìn nhận về tổ chức, môi trường làm việc và cơ sở của họ.
- Vì vậy một số hậu quả cá nhân có thể xảy ra khi nghiên cứu kết thúc.
- Sự giữ khoảng cách, nghiên cứu.
- Đó là những nghiên cứu được thực hiện trong khuôn khổ một luận văn hoặc những nghiên cứu mà nhà thực hành-nghiên cứu, người thực hiện nó, không tham gia vào việc đào tạo..
- Theo quan niệm này, tình huống thuận lợi nhất trong trường hợp nhà thực hành được hướng dẫn thực hiện nghiên cứu trong khuôn khổ các luận văn và các nghiên cứu cuối khóa học.
- Việc lựa chọn đối tượng nghiên cứu là của riêng họ nhưng khóa luận thường liên quan đến một tổ chức đặc biệt, cần phải xây dựng một cách công khai mối quan hệ mà họ muốn duy trì với tổ chức đó..
- Sự phân tích này liên quan một cách đặc biệt đến học đường nhưng nó có thể áp dụng được với nhiều phạm vi nghiên cứu khác.