« Home « Kết quả tìm kiếm

Xã hội học pháp luật


Tóm tắt Xem thử

- Xã hội học pháp luật.
- Chúng ta sẽ nghiên cứu một chuyên ngành mới của xã hội học, đó là xã hội học pháp luật.
- Xã hội học pháp luật là một chuyên ngành nghiên cứu pháp luật dưới góc độ xã hội học tức là chúng ta xem xét pháp luật trong tổng thể các mối quan hệ pháp luật để thấy được quá trình hình thành của pháp luật, để thấy được tính hiệu lực của pháp luật đối với xã hội, để thấy được sự phản ánh của pháp luật đối với pháp luật (tích cực hoặc tiêu cực)..
- Trong quá trình nghiên cứu bài này thì chúng ta sẽ nghiên cứu pháp luật nói chung và pháp luật Việt Nam nói riêng.
- Cơ sở hình thành xã hội học pháp luật.
- Như chúng ta đã biết pháp luật ra đời cùng với sự ra đời của nhà nước.
- Lúc đó, xã hội có sự phân chia giai cấp, giai cấp thống trị nắm vai trò quản lý nhà nước..
- K.Marx và F.Engels đã cho rằng sự hình thành của pháp luật là kết quả của hoạt động có ý chí, có ý thức của giai cấp xây dựng pháp luật.
- Pháp luật ra đời là do ý chí của giai cấp thống trị, các giai đoạn của pháp luật là do ý chí của giai cấp thống trị.
- K.Marx và F.Engels coi pháp luật thuộc loại các hiện tượng chủ quan của sự phát triển xã hội.
- Ở đây, các ông đã xác định rằng hoạt động có ý chí, có ý thức của giai cấp thống trị trong từng trường hợp cụ thể được quyết định bởi các điều kiện hay kết quả của đời sống xã hội đó.
- Không thể hiểu sự phát triển các hình thức nhà nước, các quan hệ chính trị và pháp luật từ chính nó, cũng như từ chính sự phát triển chung của tinh thần con người, sự phát triển đó có nguồn gốc sâu xa trong các điều kiện vật chất của đời sống xã hội trong sự phát triển của các quan hệ kinh tế..
- Ở đây, nguồn gốc pháp luật từ các điều kiện vật chất khách quan nhưng nó phải có tính phổ biến trong tổng thể quan hệ của xã hội.
- Như vậy, các quan hệ kinh tế, vật chất của từng xã hội đó sinh ra hệ thống pháp luật tương ứng với nó.
- Tuy vậy, các nhà kinh điển của chủ nghĩa Mác- Lênin cũng cho rằng các quan hệ vật chất, các quan hệ kinh tế không trực tiếp sinh ra pháp luật mà các quan hệ pháp luật tương ứng với các quan hệ vật chất và quan hệ kinh tế đó được trung chuyển bằng cách này hay cách khác khi chúng được thể hiện trong lợi ích của giai cấp nhất định..
- Bởi vậy, khía cạnh ý chí có ý nghĩa rất to lớn đối với việc giải thích vấn đề bản chất của pháp luật: Chính trong hoạt động có ý chí hướng đến việc xây dựng các quy phạm pháp luật lợi ích tồn tại một cách khách quan đã được nhận thức của giai cấp thống trị được phản ánh một cách trực tiếp..
- Do vậy có thể và cần phải coi trọng toàn bộ hệ thống pháp luật thực định như là sản phẩm của ý thức.
- Không phải ý thức con người làm cơ sở cho các lợi ích được pháp luật bảo vệ tồn tại (ý thức không quyết định nội dung của pháp luật) mà ý thức là hình thức tiếp nhận sự phản ánh lợi ích đó trong đầu của con người được quyết định bởi trạng thái ý thức xã hội (tâm lý xã hội) trong thời đại đó.
- Nếu không tiếp nhận sự lĩnh hội trạng thái ý thức xã hội thì chúng ta hoàn toàn không thể giải thích cho chính mình về lịch sử pháp luật..
- Chính vì vậy cần phải làm sáng tỏ cái nguồn trực tiếp hình thành ý chí xây dựng pháp luật của giai cấp thống trị.
- Như vậy, ý chí là sự thể hiện của các lợi ích khách quan của giai cấp thống trị, là kết quả của sự phản ánh có ý thức các lợi ích đó trong pháp luật.
- Do vậy, trong thượng tầng pháp lý ý nghĩa của lợi ích không chỉ thể hiện ở chỗ là các lợi ích nhất định của giai cấp là khách thể được pháp luật bảo vệ nói chung và của việc thực hiện quyền chủ thể nói riêng, mà còn ở chỗ các lợi ích đó quyết định ý chí giai cấp, ý chí xã hội, ý chí nhà nước, trong đó có pháp luật..
- Tuy nhiên, khi đề cập đến pháp luật tư sản K.Marx và F.Engels viết: “Pháp luật của các ông chỉ là ý chí của giai cấp các ông được đưa lên thành luật, cái ý chí mà nội dung là do điều kiện sinh hoạt vật chất của giai cấp các ông quyết định”.
- Như vậy, pháp luật tư sản chỉ là sự thể hiện những ý chí, tư tưởng của lợi ích của giai cấp tư sản mà quên đi những điều kiện lợi ích khách quan của xã hội làm cho cán cân phát triển của xã hội lệch đi một hướng đó là phát triển chủ nghĩa bóc lột, phát triển của giai cấp tư sản..
- Ví dụ: Pháp luật tư sản dùng từ “khách quan”, “cạnh tranh ngang nhau” để nói về sự xâm nhập, giành nhau thương trường và điều này, tất nhiên những tập đoàn tư sản sẽ dễ dàng bóp chết các cơ sở sản xuất nhỏ..
- Tóm lại, cơ sở của việc hình thành pháp luật là:.
- Sự hình thành pháp luật ban đầu từ những nhu cầu cơ bản của đại bộ phận dân cư, suy cho cùng là do các quan hệ sản xuất trong quá trình sản xuất quyết định, là những nguyên nhân thúc đẩy hoạt động có ý thức của giai cấp xây dựng pháp luật.
- Ý thức không quyết định nội dung pháp luật mà ý thức là hình thức tiếp nhận, sự phản ánh nhận thức đó trong đầu của con người..
- Pháp luật được giai cấp thống trị sử dụng để khẳng định và bảo vệ các quan hệ xã hội phù hợp với lợi ích cơ bản của giai cấp..
- Khái niệm xã hội học pháp luật.
- Xã hội học pháp luật là một lĩnh vực xã hội học nghiên cứu bản chất xã hội của pháp luật, chức năng và cơ chế hoạt động của pháp luật, hiệu quả của tư pháp trên các cấp độ khác nhau trong một xã hội nhất định..
- Cũng như nhiều chuyên ngành khác của xã hội học, như xã hội học nông thôn, đô thị, gia đình....
- thì xã hội học pháp luật cũng là một lĩnh vực chuyên biệt của xã hội học..
- Ví dụ: Xã hội học nông thôn nghiên cứu những con người trong cộng đồng làng xã thì xã hội học pháp luật nghiên cứu con người hoặc các nhóm người trong việc áp dụng, tuân theo pháp luật khi xử sự trong xã hội..
- còn nếu xét bạn ấy ở góc độ xã hội học pháp luật thì ta xét bạn ấy đã thành niên, được quyền đăng ký kết hôn, có phải thực hiện nghĩa vụ quân sự không? Và có thể nhân rộng ra là các nhóm bạn..
- Xã hội học pháp luật nghiên cứu bản chất, chức năng và cơ chế hoạt động của pháp luật các vấn đề này đều có mối liên hệ mật thiết với bản chất của nhà nước.
- Bản chất của nhà nước quyết định bản chất của pháp luật.
- Nhưng xã hội học pháp luật không làm công tác nghiên cứu cụ thể bản chất của pháp luật mà công việc này là của các ngành luật học.
- Xã hội học pháp luật chỉ nghiên cứu bản chất pháp luật trong mối liên hệ với xã hội..
- Hiệu quả của tư pháp tức là hiệu lực thực tế của pháp luật trong xã hội, tức là sự phản hồi của người dân đối với công tác quản lý của giai cấp thống trị.
- Điều đó đòi hỏi khi ban hành văn bản pháp luật cần phải xem xét mọi mặt, nhất là tính hiệu lực của nó..
- Đối tượng của xã hội học pháp luật.
- Xã hội học pháp luật xác định cho mình một đối tượng riêng, mang tính đặc thù để phân biệt với các đối tượng của các ngành khoa học khác..
- Về cơ bản, đối tượng nghiên cứu của xã hội học pháp luật là:.
- Xã hội học pháp luật nghiên cứu cơ chế chuyển hóa các nhân tố xã hội thành những quy phạm pháp luật..
- o Nhân tố xã hội học pháp luật rất đa dạng và phức tạp.
- o Chính sự đa dạng, phức tạp đặc thù của các nhân tố xã hội mà khi chuyển hóa chúng thành quy phạm pháp luật (các quy tắc xử sự chung) thì cần phải xem xét đến bản chất, quy luật của từng nhân tố xã hội đề ra những quy phạm phù hợp..
- Ví dụ: Bản chất của lưu thông giao thông là an toàn, thuận tiện, tiết kiệm thì các quy phạm pháp luật giao thông phải phù hợp.
- o Không phải mọi nhân tố xã hội đều được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật.
- Xã hội học pháp luật cần xem xét những nhân tố nào có thể được chuyển hóa thành quy phạm pháp luật và nhân tố nào không cần..
- o Việc chuyển hoá các nhân tố xã hội thành pháp luật phụ thuộc vào quy mô, tính phổ biến, bản chất của nhân tố xã hội đó.
- Đối với những nhân tố mang tính phức tạp cao, cần phải có những quy tắc xử sự chung thì nó cần phải được chuyển hoá thành quy phạm pháp luật hoặc là tính phổ biến, tính quy mô của nó.
- Vì vậy, quy phạm pháp luật trong kinh doanh cần đảm bảo tính lợi nhuận (tiêu chí hàng đầu)..
- o Đối tượng nghiên cứu thứ hai của xã hội học pháp luật là sự hoạt động của quy phạm pháp luật ấy trong xã hội..
- o Khi các nhân tố xã hội được chuyển hoá thành quy phạm pháp luật thì cũng cần phải có những đảm bảo để quy phạm đó được vận hành.
- Các quy phạm pháp luật trong sự vận hành thì cần phải có những biện pháp chế tài cưỡng chế để mọi người tuân theo.
- Nhưng nếu lấy chế tài là tiêu chí tiên quyết trong quá trình hoạt động của quy phạm pháp luật thì.
- quy phạm pháp luật đó sẽ không tồn tại lâu dài được, nhất là trong chế độ xã hội chủ nghĩa..
- o Quy phạm pháp luật bản thân nó phải tự sống, tức là nó phải phù hợp với những quy luật phát triển của xã hội.
- Nếu một lúc nào đó quy phạm pháp luật không còn phù hợp với thực tiễn nữa thì nó sẽ bị thay thế bằng một quy phạm pháp luật khác..
- Như vậy, đối tượng của xã hội học pháp luật là nghiên cứu các cơ chế chuyển hoá các nhân tố xã hội thành những quy phạm pháp luật những sự hoạt động của những quy phạm pháp luật ấy trong xã hội diễn ra như thế nào..
- Nội dung cơ bản của xã hội học pháp luật.
- Tính hiệu quả của pháp luật.
- Tính hiệu quả của pháp luật có lẽ là vấn đề phức tạp nhất của khoa học pháp lý.
- Tính hiệu quả của pháp luật về thực chất bao hàm toàn bộ các vấn đề từ xây dựng pháp luật, các chức năng của pháp luật đến sự thực hiện pháp luật..
- Pháp luật là công cụ quản lý nhà nước của giai cấp thống trị.
- Giai cấp thống trị xây dựng cho mình một hệ thống pháp luật phù hợp với lợi ích của giai cấp mình.
- Vậy trước hết nếu lợi ích của giai cấp thống trị không đồng nhất với lợi ích của đa số nhân dân thì các quy định pháp luật do giai cấp thống trị đưa ra sẽ không nhận được sự hưởng ứng của đa số nhân dân.
- Như vậy, trước hết hiệu quả của pháp luật phụ thuộc vào bản chất của giai cấp thống trị..
- Hiệu quả của pháp luật còn phụ thuộc vào các điều kiện xã hội.
- Để đạt được hiệu quả thì các qui định pháp luật phải phù hợp với các chuẩn mực văn hoá, chính trị, đạo đức....
- Ví dụ: Pháp luật về hôn nhân gia đình phải phù hợp với các chuẩn mực đạo đức về hôn nhân gia đình trong xã hội phương Đông..
- Pháp luật là kiến trúc thượng tầng, do đó pháp luật sẽ do kinh tế (cơ sở hạ tầng) qui định.
- Pháp luật hình thành phù hợp với các lợi ích kinh tế..
- Tính hiệu quả của pháp luật phải mang tính lâu dài, bền vững, khi xây dựng pháp luật phải lường trước những biến đổi của xã hội.
- Hay nói cách khác, pháp luật phải có tính dự liệu cao.
- Một qui định pháp luật đưa ra không chỉ tồn tại, phù hợp với hiện tại mà nó phải mang tính ổn định cao,.
- Hiệu quả của pháp luật càng cao thì tính ổn định càng cao và ngược lại..
- Tính không hiệu quả của pháp luật.
- Đó là những hậu quả tiêu cực của pháp luật..
- Tính không hiệu quả của pháp luật được qui định bởi những yếu tố ngược lại với tính hiệu quả của pháp luật..
- Các qui định pháp luật không được xây dựng trên những qui tắc xử sự chung của nhân dân mà nó được xây dựng trên ý chí ích kỷ của giai cấp thống trị, bảo vệ lợi ích tư lợi của giai cấp thống trị, trái với lợi ích của đông đảo quần chúng nhân dân..
- Lợi ích của pháp luật được xây dựng không xem xét đến các vấn đề kinh tế - chính trị - xã hội..
- Không phù hợp với sự phát triển của xã hội.
- Khi đó các qui định pháp luật sẽ bị “chết đi” khi nó được đưa vào áp dụng.
- Ở đây, xã hội đã đào thải nó.
- Nếu giai cấp thống trị trong trường hợp này cố tình áp dụng các biện pháp cưỡng chế, đàn áp để cho qui định pháp luật được “sống” thì nó lại càng bộc lộ rõ hơn các mặt tiêu cực của mình.
- Một số vấn đề về xã hội học pháp luật.
- Ý thức pháp luật.
- Ý thức pháp luật là việc chấp hành pháp luật của nhân dân.
- Trong xã hội, ý thức chấp hành pháp luật của các bộ phận dân cư không giống nhau, do có sự khác nhau về trình độ, giới tính, tôn giáo, lứa tuổi....
- Lứa tuổi thanh thiếu niên là lứa tuổi có ý thức chấp hành pháp luật thấp nhất so với các lứa tuổi khác.
- Nữ giới thì có ý thức pháp luật cao hơn nam giới..
- Những người có địa vị xã hội cao, điều kiện kinh tế khá giả, trình độ học vấn cao thì ý thức pháp luật cao hơn so với nhóm ngược lại..
- Đây là vấn đề mà mọi xã hội đều phải quan tâm trong quá trình phát triển của mình.
- Tăng cường pháp chế tức là tăng tính hiệu lực của pháp luật.
- Đảm bảo pháp luật là công cụ của nhà nước dùng để quản lý đất nước..
- Để tăng cường được pháp chế thì cần phải có sự kết hợp đồng bộ giữa các cơ quan, ban ngành khác nhau trong quá trình xây dựng cũng như thực thi pháp luật..
- Cần kết hợp nghiên cứu xã hội bằng các biện pháp xã hội để biết được nhu cầu cũng như mong muốn của đại bộ phận dân cư trước khi ban hành một qui định pháp luật.
- Cần có sự thống nhất, đồng bộ giữa các ngành, các cấp, giữa các văn bản qui phạm pháp luật khác nhau của các ngành, tránh sự chồng chéo nhau.