« Home « Kết quả tìm kiếm

XÂY DỰNG NHÀ NƯỚC PHÁP QUYỀN VIỆT NAM XÃ HỘI CHỦ NGHĨA CỦA DÂN, DO DÂN, VÌ DÂN DƯỚI SỰ LÃNH ĐẠO CỦA ĐẢNG TRONG ĐIỀU KIỆN NƯỚC TA HIỆN NAY


Tóm tắt Xem thử

- Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ IX của Đảng Cộng sản Việt Nam đã xác định nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa (XHCN) dưới sự lãnh đạo của Đảng là một trong những nhiệm vụ có tính chiến lược trong quá trình thực hiện các mục tiêu phát triển kinh tế - xã hội .
- Việc xác định mục tiêu xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN trong Báo cáo Chính trị của Đại hội IX không chỉ khẳng định quyết tâm chính trị của Đảng ta trong việc đẩy mạnh cải cách tổ chức và hoạt động của Nhà nước, phát huy dân chủ, tăng cường pháp chế mà còn đánh dấu một giai đoạn phát triển mới của sự nghiệp xây dựng Nhà nước kiểu mới - một Nhà nước của dân, do dân, vì dân - khởi đầu từ cuộc Cách mạng tháng Tám năm 1945.
- Những quy định của Hiến pháp 1946 là những chuẩn mực hiến định đầu tiên cho việc xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam..
- Vượt lên tất cả sự thăng trầm, phức tạp của thời cuộc, mỗi một bản Hiến pháp, kể cả Hiến pháp 1946, Hiến pháp 1959, Hiến pháp 1980 và Hiến pháp 1992 là một mốc quan trọng trong quá trình xây dựng và củng cố nhà nước pháp quyền XHCN của chúng ta..
- Tuy nhiên, quá trình xây dựng và tăng cường Nhà nước trong mấy chục năm qua cho thấy, hàng loạt vấn đề lý luận về tổ chức và hoạt động của Nhà nước vẫn chưa được tổng kết, làm rõ.
- Do vậy, các giải pháp đổi mới tổ chức và hoạt động của Nhà nước được triển khai trong nhiều giai đoạn lịch sử vẫn chưa đưa lại những kết quả mong muốn.
- Sự bất cập trong tổ chức bộ máy Nhà nước và cơ chế vận hành của bộ máy này đang cản trở việc phát huy vai trò của Nhà nước ta trong cơ chế kinh tế mới.
- Nhận thức lý luận về chế độ pháp quyền trong hoạt động Nhà nước và xã hội vẫn chưa đáp ứng được nhu cầu phát triển và do vậy chưa tạo lập được các cơ sở khoa học vững chắc cho việc tìm kiếm các giải pháp cải cách thực tiễn đối với đời sống Nhà nước.
- Chính vì thế, sự nghiên cứu lý luận và thực tiễn về Nhà nước pháp quyền đang là một trong những vấn đề cấp thiết hiện nay..
- Vậy Nhà nước pháp quyền trong tổng thể cần được hiểu như thế nào cho đúng?.
- Chúng ta đều biết rằng, ra đời trong thời kỳ các cuộc cách mạng tư sản, các học thuyết pháp quyền tư sản đều đã xuất phát từ nhu cầu muốn phá bỏ cách cai trị phong kiến hà khắc và độc đoán, thiết lập một phương thức biểu thị quyền lực chính trị và quyền lực Nhà nước dân chủ hơn chế độ chính trị phong kiến.
- Với thắng lợi của các cuộc cách mạng tư sản và thiết lập ở các nước phương Tây chế độ Nhà nước tư sản, học thuyết Nhà nước pháp quyền đã được áp dụng vào việc tổ chức thực thi quyền lực thực tế.
- Tuy nhiên, do nền chính trị ở mỗi nước khác nhau, sự đối sánh giai cấp, truyền thống và đặc điểm dân tộc cũng khác nhau trong từng thời kỳ lịch sử đã dẫn đến những thực tế khác nhau về cách tổ chức Nhà nước.
- Nhà nước pháp quyền chính nó không phải là bản chất của bất kỳ một Nhà nước nào..
- Đối với chúng ta, nói xây dựng Nhà nước pháp quyền XHCN là nói tới một phương thức tổ chức nền chính trị XHCN và Nhà nước XHCN mà mục đích là không ngừng duy trì bản chất giai cấp công nhân và tính nhân dân của Nhà nước ta, phát huy cao độ dân chủ XHCN, làm cho Nhà nước ta thật sự trong sạch, vững mạnh, nâng cao hiệu lực và hiệu quả quản lý và điều hành..
- Mô thức tổng quát nhất của Nhà nước pháp quyền bao gồm trong đó những đòi hỏi nhất định về tổ chức thực hiện quyền lực Nhà nước.
- a) Yêu cầu về tính pháp quyền của bản thân các thiết chế Nhà nước.
- Nói khác đi, Nhà nước pháp quyền là chế độ cai trị mà ở đó quyền lực được ghi nhận bởi Hiến pháp và pháp luật, khẳng định đó là quyền xuất phát từ nhân dân.
- Vì vậy, đòi hỏi này đồng nghĩa với yêu cầu về tính tối cao của các cơ quan đại diện cho nhân dân đối với tất cả các thiết chế khác của Nhà nước..
- b) Yêu cầu về tính tối thượng của pháp luật.
- Pháp luật không chỉ ghi nhận vị trí, giới hạn thẩm quyền của các cơ quan Nhà nước mà còn có hiệu lực ràng buộc các cơ quan đó phải hoạt động trong khuôn khổ và trên cơ sở các thẩm quyền luật định.
- c) Yêu cầu về mối liên hệ dân chủ giữa các cơ quan Nhà nước với cá nhân, giữa Nhà nước với các thiết chế tự quản và xã hội dân sự.
- d) Yêu cầu về tổ chức quyền lực Nhà nước khoa học và dân chủ trên cơ sở Hiến pháp và pháp luật thể hiện ở nguyên tắc phân công quyền lực: giữa các phạm vi quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
- Với những đòi hỏi như vậy, chế độ Nhà nước pháp quyền được thực tiễn lịch sử chấp nhận như một cách cai trị ưu việt bên cạnh những phương thức thực thi quyền lực khác như chính sách (kinh tế, xã hội, giáo dục, khoa học - kỹ thuật.
- Ngày nay vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam đang được đặt ra như một tất yếu lịch sử và một tất yếu khách quan..
- Tính tất yếu lịch sử của Nhà nước pháp quyền bắt nguồn từ chính lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta.
- Ngay từ khi thành lập, Nhà nước cộng hoà của ta đã và luôn là một nhà nước hợp hiến, hợp pháp.
- Nhà nước được tổ chức và.
- Hiến pháp và các đạo luật tổ chức Quốc hội, Chính phủ, Toà án nhân dân, Viện Kiểm sát nhân dân, các đạo luật về chính quyền địa phương được xây dựng và công bố trên cơ sở các Hiến pháp mỗi lần được sửa đổi thông qua là những bước củng cố cơ sở pháp luật cho tổ chức và hoạt động của bản thân các cơ quan nhà nước.
- Vì vậy, quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở Việt Nam là một quá trình lịch sử được bắt đầu ngay từ Tuyên ngôn Độc lập năm 1945 và Hiến pháp 1946..
- Do vậy, trong các điều kiện hiện nay, tính tất yếu lịch sử của việc xây dựng Nhà nước pháp quyền lại được khẳng định mạnh mẽ bởi tính tất yếu khách quan của sự phát triển đất nước trong thế giới ngày nay..
- một Nhà nước pháp quyền XHCN dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam trên nền tảng chủ nghĩa Mác Lê-nin và tư tưởng Hồ Chí Minh..
- Nhu cầu hội nhập quốc tế đòi hỏi chúng ta phải tiếp tục đẩy mạnh cải cách Nhà nước, cải cách pháp luật, đảm bảo cho Nhà nước không ngừng vững mạnh, có hiệu lực để giải quyết có hiệu quả các nhiệm vụ phát triển kinh tế - xã hội, mở rộng dân chủ, giữ vững độc lập, tự chủ và hội nhập vững chắc vào đời sống quốc tế..
- Để đáp ứng được các nhu cầu có tính tất yếu lịch sử và tất yếu khách quan ấy, nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta hiện nay đang được tiến hành trên các quan điểm sau:.
- Nhà nước pháp quyền Việt Nam là Nhà nước của dân, do dân, vì dân, bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều của dân.
- Quan điểm ấy có tính bản chất của Nhà nước ta đã được khẳng định trong tất cả các bản Hiến pháp.
- Đặc biệt, Hiến pháp 1992 đã khẳng định: "Nhà nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam là nhà nước của nhân dân, do nhân dân và vì nhân dân.
- Tất cả quyền lực Nhà nước thuộc về nhân dân mà nền tảng là liên minh của giai cấp công nhân với giai cấp nông dân và tầng lớp trí thức"..
- Đối với Nhà nước ta, tính giai cấp gắn bó chặt chẽ với tính dân tộc và tính nhân dân.
- Tư tưởng xây dựng một Nhà nước của dân, do dân, vì dân là do Đảng Cộng sản Việt Nam chủ trương bắt nguồn từ truyền thống đại đoàn kết dân tộc của các thế hệ người Việt Nam trong mấy nghìn năm dựng nước và giữ nước:.
- Bài học “lấy dân làm gốc” với tư tưởng bao nhiêu lợi ích đều vì dân, bao nhiêu quyền hành đều của dân luôn nhất quán trong lịch sử xây dựng và phát triển của Nhà nước ta, ngày nay càng trở nên hết sức quan trọng.
- Nhà nước ta do dân lập nên, do dân bầu ra, dân kiểm tra, giám sát.
- Đó phải là nhà nước hoạt động vì dân, lấy việc phục vụ nhân dân làm mục tiêu cao nhất của mình.
- Sức mạnh của Nhà nước ta bắt nguồn từ sức mạnh của nhân dân, của khối đại đoàn kết toàn dân.
- phải xây dựng Nhà nước trong sạch, vững mạnh, gần dân, sát dân, thể hiện đúng ý chí, nguyện vọng của dân.
- đảm bảo trên thực tế quyền lực nhà nước thuộc về nhân dân.
- Vấn đề cấp bách đang được đặt ra là cần phải xây dựng một cơ chế pháp luật có hiệu quả, đảm bảo nhân dân luôn là chủ thể duy nhất và tối cao của quyền lực nhà nước trên thực tế sao cho dân trao quyền cho các thiết chế nhà nước mà không bị mất quyền và toàn bộ hoạt động của Nhà nước luôn nằm trong vòng kiểm tra, giám sát của chính nhân dân..
- Bộ máy nhà nước được tổ chức trên cơ sở nguyên tắc: quyền lực nhà nước là thống nhất nhưng có sự phân công, phối hợp giữa các cơ quan thực hiện quyền lập pháp, quyền hành pháp và quyền tư pháp.
- Hiến pháp 1992 xác định rõ: Quốc hội là cơ quan quyền lực nhà nước cao nhất.
- Chủ tịch nước là người đứng đầu Nhà nước.
- Chính phủ là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất.
- Qua việc phân tích các quy định của Hiến pháp 1992 và các Luật về tổ chức và hoạt động của các cơ quan nhà nước cao nhất ở nước ta, có thể nhận thấy sự phân công, phân nhiệm về quyền hạn, nhiệm vụ chức năng giữa 3 quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp đã được xác định.
- Sự phân công quyền lực nhà nước giữa các cơ quan tối cao của Nhà nước trong các điều kiện hiện nay ở nước ta không mang tính tuyệt đối.
- Chính phủ ngoài hoạt động hành pháp còn tham gia tích cực vào nhiệm vụ lập pháp của Quốc hội (xây dựng các dự án Luật), thực hiện việc quản lý các hệ thống Toà án địa phương… Vấn đề cơ bản đang đặt ra trong việc xây dựng, củng cố bộ máy nhà nước không phải là ở chỗ quy định lại các thẩm quyền, nhiệm vụ của các cơ quan nhà nước hiện đang ở vị trí cao nhất của quốc gia, mà là ở chỗ các cơ quan nhà nước này phải được tổ chức và hoạt động như thế nào để thực hiện tốt thẩm quyền và nhiệm vụ hiến định..
- Quốc hội thực hiện chức năng lập pháp, có nghĩa là Quốc hội phải thực hiện và quán xuyến toàn bộ các giai đoạn của quá trình xây dựng pháp luật.
- Vấn đề xây dựng Nhà nước pháp quyền phụ thuộc rất nhiều vào việc xây dựng pháp luật mà nội dung trung tâm là hoạt động làm luật của Quốc hội.
- Như vậy sự củng cố vai trò, vị trí của Quốc hội trong bộ máy nhà nước hiện nay không phải là ở chỗ tăng thêm quyền cho Quốc hội trong các quy định Hiến pháp mà là ở chỗ tăng cường năng lực làm luật của Quốc hội và của bản thân từng đại biểu Quốc hội.
- Quốc hội với tư cách là cơ quan thực hiện quyền lập pháp, tổ chức và hoạt động của Quốc hội cần được đổi mới để phù hợp với nhu cầu xây dựng pháp luật trong tình hình mới.
- Hiến pháp 1992 quy định chế định Chủ tịch nước trong cơ cấu tổ chức bộ máy nhà nước.
- Đây là một bước tiến trong sự phát triển của bộ máy nhà nước theo tinh thần của một Nhà nước pháp quyền hiện đại.
- Quyền hạn, nhiệm vụ của Chủ tịch nước đã được xác định cụ thể trong Hiến pháp, nhờ vậy đã bước đầu tạo ra các cơ sở pháp lý vững chắc cho hoạt động hiệu quả của nguyên thủ quốc gia với tính cách là người giữ gìn và đảm bảo nguyên tắc thống nhất quyền lực nhà nước và phân công rành mạch, phối hợp chặt chẽ ba quyền lập pháp, hành pháp và tư pháp.
- Quá trình xây dựng Nhà nước pháp quyền ở nước ta, chế định Chủ tịch nước cần được tiếp tục nghiên cứu theo hướng củng cố và tăng cường vị trí, vai trò của Chủ tịch nước trong bộ máy Nhà nước, đặc biệt trong lĩnh vực hành pháp..
- "Chính phủ là một cơ quan chấp hành của Quốc hội, cơ quan hành chính nhà nước cao nhất của nước Cộng hoà Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam".
- Là cơ quan hành chính nhà nước cao nhất, sự đổi mới toàn diện của Chính phủ là một động lực quan trọng góp phần quyết định sự thành công của công cuộc cải cách nền hành chính quốc gia.
- Việc thực thi quyền này ảnh hưởng trực tiếp đến mục tiêu và các giá trị của công cuộc xây dựng Nhà nước pháp quyền.
- Tiết kiệm cho Nhà nước;.
- Nhà nước pháp quyền cũng đòi hỏi phải xây dựng và tăng cường các tổ chức luật sư, các tổ chức tư vấn pháp luật, công chứng nhà nước và công chứng phi chính phủ, các tổ chức trọng tài phi chính phủ..
- Xây dựng cải cách hệ thống pháp luật đáp ứng các yêu cầu của mục tiêu.
- Với bốn bản Hiến pháp được thông qua, hệ thống pháp luật Việt Nam trên thực tế đã trải qua bốn giai đoạn phát triển và cải cách.
- Ở mỗi một giai đoạn lịch sử cụ thể, vai trò của pháp luật được thể hiện ở những mức độ khác nhau, lúc mạnh, lúc yếu nhưng ở mọi thời kỳ, pháp luật luôn là một trong những công cụ quan trọng để Nhà nước quản lý xã hội, củng cố kỷ cương và tăng cường dân chủ..
- Hiến pháp 1992 đã xác định: “Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật và không ngừng tăng cường pháp chế...”..
- Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, theo pháp luật là nguyên tắc có tính hiến định xác lập các cơ sở chủ yếu điều chỉnh các quan hệ cơ bản trong xã hội giữa công dân với công dân, giữa công dân với Nhà nước, giữa Nhà nước với các tổ chức xã hội.
- Hoàn thiện các quy định về thẩm quyền và thủ tục ban hành các văn bản pháp luật.
- đảm bảo pháp luật được xây dựng và ban hành đúng thẩm quyền, đúng thủ tục, đúng đối tượng.
- Tuy nhiên, công tác xây dựng pháp luật vẫn chưa thể xem là đã phù hợp và đáp ứng được các nhiệm vụ xây dựng Nhà nước pháp quyền.
- về quyền ban hành pháp luật của Uỷ ban Thường vụ Quốc hội.
- về thẩm quyền và thủ tục ban hành các văn bản quy phạm pháp luật của chính quyền địa phương.
- đang đòi hỏi phải được nghiên cứu để cải cách và hoàn thiện hoạt động xây dựng pháp luật trong các điều kiện hiện nay ở nước ta..
- Hoàn thiện pháp luật trong lĩnh vực tổ chức và hoạt động của các cơ quan trong bộ máy nhà nước.
- Nhu cầu cải cách bộ máy nhà nước hiện nay đòi hỏi phải đổi mới căn bản các quy định pháp luật về tổ chức, về phẩm quyền.
- về lề lối làm việc, về cơ chế quan hệ quyền lực giữa các cơ quan nhà nước.
- Pháp luật trong lĩnh vực tổ chức quyền lực nhà nước phải đáp ứng được yêu cầu: Xây dựng một bộ máy nhà nước gọn nhẹ, hiệu lực và hiệu quả, đủ khả năng tổ chức và quản lý các quá trình kinh tế - xã hội, đảm bảo trật tự và an toàn cho sự phát triển đất nước, đồng thời đảm bảo khả năng kiểm soát quyền lực và việc thực thi quyền lực nhà nước trên thực tế từ phía nhân dân và toàn thể xã hội.
- Việc xây dựng các cơ sở pháp luật để kiểm soát quyền lực, đặc biệt kiểm soát hoạt động của các cơ quan hành chính nhà nước, có ý nghĩa quyết định đối với tiến trình dân chủ hoá xã hội..
- Xây dựng và hoàn thiện pháp luật đối với việc củng cố và phát triển xã hội công dân.
- Nhà nước pháp quyền gắn liền với xã hội công dân, do vậy mọi củng cố các cơ sở pháp luật đối với tổ chức và hoạt động của các tổ chức công quyền phải gắn liền với việc củng cố pháp luật xã hội công dân.
- ở chỗ, các quy định của pháp luật một mặt không làm lẫn lộn Nhà nước với tư cách là xã hội chính trị với xã hội công dân, Nhà nước không trùm lên xã hội mà Nhà nước chỉ là tổ chức phụng sự xã hội, bảo đảm cho xã hội.
- Một trong những nhiệm vụ quan trọng trong công tác xây dựng pháp luật hiện nay là chú trọng đến việc đổi mới hoàn thiện pháp luật về dân chủ (cả dân chủ đại diện và dân chủ trực tiếp).
- Sự phát triển của nền dân chủ trong nhà nước pháp quyền đang đòi hỏi phải nghiên cứu xây dựng các đạo luật về dân chủ trực tiếp, trong đó đáng chú ý là đạo luật về trưng cầu ý dân và đạo luật về chế độ tự quản của nhân dân..
- Trước hết là xác định chế độ pháp lý về trách nhiệm của các cơ quan nhà nước trong việc đảm bảo và tôn trọng quyền công dân.
- Với ý nghĩa này, có nhiều phương diện pháp lý và đạo đức nảy sinh từ bản chất của một nhà nước của dân, do dân và vì dân, trong đó có hai phương diện đặc biệt quan trọng: đó là thủ tục hành chính và trách nhiệm dân sự của nhà nước đối với công dân trong những trường hợp lợi ích hợp pháp của họ bị các cơ quan nhà nước các công chức nhà nước vi phạm..
- Một dự luật về trách nhiệm dân sự của Nhà nước trong các quan hệ này rất cần được nghiên cứu xây dựng.
- Đặc biệt, cơ chế pháp lý đảm bảo việc thực hiện trách nhiệm dân sự của nhà nước đối với công dân có ý nghĩa to lớn.
- Nhà nước pháp quyền đòi hỏi pháp luật phải được thực hiện nghiêm chỉnh và thống nhất.
- Tuân thủ nghiêm chỉnh và triệt để pháp luật, thực hiện tích cực các quy định của pháp luật, sống làm việc có kỷ cương, kỷ luật là đòi hỏi của Nhà nước pháp quyền và xã hội công dân..
- Nhà nước ta quản lý xã hội bằng pháp luật, đồng thời coi trọng giáo dục nâng cao đạo đức, kết hợp biện pháp hành chính với giáo dục tư tưởng, nâng cao dân trí kết hợp sức mạnh của pháp luật với sức mạnh của quần chúng.
- Đây chính là một nét đặc sắc trong tư tưởng văn hoá pháp lý truyền thống của các thế hệ người Việt Nam được kết tinh trong tư tưởng Hồ Chí Minh về nhà nước và pháp luật..
- Nhà nước pháp quyền hay một chế độ pháp trị trong thế giới ngày nay đang là một trong những vấn đề tiếp tục được các dân tộc quan tâm.
- Những giá trị của tư tưởng Nhà nước pháp quyền được đúc kết trong suốt tiến trình phát triển của tư tưởng pháp lý nhân loại đang tiếp tục được phát triển và làm phong phú thêm xu hướng giao thoa giữa các nền văn hoá Đông - Tây và do vậy ngày càng trở nên có giá trị, có tính phổ quát.
- Tuy nhiên, sự phổ quát đó không loại bỏ tính đặc thù của nền văn hoá của các dân tộc và vì thế không thể nói đến những chuẩn mực pháp lý thống nhất hay mô hình Nhà nước pháp quyền thống nhất cho mọi quốc gia, dân tộc.
- Việt Nam, xuất phát từ truyền thống văn hoá pháp lý của mình, với các đặc điểm của sự phát triển kinh tế - xã hội, kết hợp với việc tiếp thu các giá trị có tính phổ biến ấy đang nỗ lực xây dựng không chỉ các quan điểm có tính lý luận mà còn phải xây dựng một Nhà nước pháp quyền thực tế - Nhà nước pháp quyền XHCN Việt Nam.