« Home « Kết quả tìm kiếm

XU HƯỚNG PHÁT TRIỂN NGÀNH DỊCH VỤ TRÊN THẾ GIỚI HIỆN NAY VÀ NHỮNG VẤN ĐỀ ĐẶT RA ĐỐI VỚI SỰ PHÁT TRIỂN CỦA NGÀNH DỊCH VỤ VIỆT NAM


Tóm tắt Xem thử

- Trong thời đại toàn cầu hoá và kinh tế tri thức hiện nay, ngành dịch vụ có vai trò ngày càng quan trọng đối với nền kinh tế thế giới và các nền kinh tế quốc gia..
- Bài viết này sẽ phân tích bảy xu hướng phát triển của ngành dịch vụ trên thế giới trong những năm gần đây và từ đó đề xuất những giải pháp nhằm phát triển ngành dịch vụ của Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và cải cách..
- Xu hướng thứ nhất: kinh tế thế giới đang chuyển đổi sang nền kinh tế dịch vụ Bốn mươi năm trước, Victor R.
- Fuchs (1968) đã nói về sự xuất hiện của nền kinh tế dịch vụ ở Mỹ.
- nền kinh tế dịch vụ..
- Ngành dịch vụ hiện đóng góp 60% GDP của thế giới (Lovelock và Wirtz, 2007).
- Dịch vụ đóng góp trên 50% GDP của các nền kinh tế Mỹ Latinh như Braxin và Áchentina, trên 60% GDP của các nước công nghiệp hoá mới ở châu Á như Singapore, Đài Loan và Malaysia.
- Dịch vụ cũng chiếm tới 48% GDP của Ấn Độ và 40% GDP của Trung Quốc (Lovelock và Wirtz, 2007, trích từ World FactBook, 2007 và EIU Country Data).
- Trong giai đoạn đóng góp của ngành dịch vụ cho giá trị gia tăng của toàn nền kinh tế OECD tăng từ 60% lên 68%, còn đóng góp của ngành công nghiệp lại giảm từ 34% xuống còn 29%.
- phẩm dịch vụ và người tiêu dùng ngày càng chi tiêu thêm cho dịch vụ nhiều hơn cho hàng hoá (FORFAS .
- Dịch vụ cũng trở thành ngành kinh tế thu hút chủ yếu lực lượng lao động hiện nay.
- Lao động trong ngành dịch vụ ở bảy nước công nghiệp phát triển (G7) năm 2000 tăng 60% so với năm 1960 và tăng 6% trong giai đoạn FORFAS, 2006: 31).
- Nền kinh tế dịch vụ hiện nay dựa trên hai nền tảng chính là toàn cầu hoá và kinh tế tri thức, được thúc đẩy bởi những thành tựu của tiến bộ khoa học kỹ thuật..
- Khi nền kinh tế ở một trình độ phát triển cao, xu hướng tiêu dùng cận biên (MPC) đối với dịch vụ lớn hơn nhiều xu hướng tiêu dùng cận biên đối với sản phẩm hàng hoá.
- Khả năng phát triển của các công ty trong những lĩnh vực dịch vụ có hàm lượng trí tuệ cao này gần như không bị hạn chế.
- Tiếp đến, dưới sức ép của cạnh tranh và hiệu quả kinh tế, các chính phủ sẽ phải mở cửa ngành dịch vụ trong nước.
- Sau nhiều năm đàm phán, năm 1995 Hiệp định về Thương mại Dịch vụ (GATS) đã được ký kết và trở thành một trong những hiệp định quan trọng nhất của Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
- Phát triển và tự do hoá ngành dịch vụ nói chung, phát triển và tự do hoá thương mại dịch vụ nói riêng đang trở thành chính sách ưu tiên của các nước..
- Khác với những nền kinh tế dịch vụ truyền thống này, kinh tế dịch vụ hiện đại có nhiều điểm tương đồng với kinh tế tri thức (knowledge-based economy).
- Không phải ngành dịch vụ nào cũng có hàm lượng trí tuệ cao và là ngành dịch vụ tri thức (knowledge-based services).
- Tuy nhiên, ngày nay, khi những ngành dịch vụ tri thức phát triển vượt bậc, trở nên thống trị lĩnh vực dịch vụ và tạo ra phần lớn giá trị gia tăng của toàn nền kinh tế, giúp ngành dịch vụ thống trị nền kinh tế thì nền kinh tế trở thành kinh tế dịch vụ.
- Vì thế, giống kinh tế tri thức, kinh tế dịch vụ hiện đại phát triển dựa vào sự sản xuất, phân phối và sử dụng tri thức và thông tin.
- Nói một cách khác, đó là kinh tế dịch vụ tri thức..
- Xu hướng thứ hai: Công nghệ thông tin thúc đẩy toàn bộ ngành dịch vụ phát triển còn tài chính - ngân hàng và dịch vụ kinh doanh là những ngành dịch vụ có tốc độ tăng trưởng nhanh nhất.
- Ngành dịch vụ tri thức phát triển dựa vào khoa học kỹ thuật mà hạt nhân là công nghệ thông tin.
- Trong ngành dịch vụ tri thức thì chi phí cho các yếu tố nguyên vật liệu đầu vào gần như không đáng kể.
- các nhà cung cấp dịch vụ giải trí có thể truyền tải phim ảnh và âm nhạc đến người nghe.
- Các ngành tài chính-ngân hàng (gồm cả bảo hiểm) và dịch vụ kinh doanh trở thành hai ngành dịch vụ quan trọng, tạo ra phần lớn giá trị gia tăng của ngành dịch vụ và là động lực thúc đẩy tăng trưởng của toàn nền kinh tế.
- Các ngành dịch vụ kinh.
- Theo một báo cáo của OECD (1999a), năm yếu tố thúc đẩy các ngành dịch vụ kinh doanh chiến lược phát triển là:.
- Các công ty nhỏ phát triển và sử dụng các dịch vụ thuê ngoài để hỗ trợ cho nguồn lực hạn chế của mình..
- Kinh tế tri thức phát triển và dựa vào các đầu vào dịch vụ được chuyên môn hoá..
- Xu hướng thứ ba: Sản phẩm dịch vụ ngày càng có tính chất của sản phẩm hàng hoá.
- Theo quan niệm truyền thống, dịch vụ là những hoạt động có tính xã hội, tạo ra các sản phẩm phi vật thể.
- Ngày nay, các sản phẩm dịch vụ như phần mềm máy tính được sản xuất, đóng gói và bán hàng loạt trên thị trường như hàng hoá thông thường.
- Công nghệ thông tin đã tạo ra những công ty cung ứng dịch vụ toàn cầu giống như các công ty sản xuất hàng hoá có quy mô toàn cầu đã xuất hiện mấy chục năm về trước..
- Khi quá trình sản xuất dịch vụ và hàng hoá trở nên giống nhau thì mối quan hệ giữa ngành dịch vụ và chế tạo cũng thay đổi.
- Quan niệm truyền thống cho rằng dịch vụ chỉ có vai trò hỗ trợ và tạo thêm giá trị cho ngành chế tạo (Wolfben, 1988:.
- Ngày nay, ranh giới giữa ngành dịch vụ và chế tạo đang dần bị lu mờ trong quá trình sản xuất.
- Đầu vào dịch vụ của các sản phẩm chế tạo không chỉ cao hơn, tạo ra giá trị gia tăng nhiều hơn cho hàng hoá mà thậm chí ngành dịch vụ còn quyết định sự phát triển của ngành chế tạo.
- Đối với nhiều nền kinh tế, nhất là các nền kinh tế đang phát triển, ngành dịch vụ phát triển là điều kiện để thu hút vốn đầu tư vào ngành chế tạo, tạo điều kiện cho ngành chế tạo phát triển (OECD, 2000: 9)..
- Xu hướng thứ tư: Thuê ngoài (Outsourcing) ngày càng tăng trong ngành dịch vụ Một trong những yếu tố thúc đẩy ngành dịch vụ hiện nay phát triển là xu hướng các công ty “thuê ngoài” nhiều hơn đối với các hoạt động trước đây vẫn tự mình tiến hành (1.
- Ngày nay, hầu hết các giai đoạn của quá trình sản xuất và cung ứng dịch vụ đều có thể được thuê ngoài (Chadwick .
- Các công ty chế tạo lại là đối tượng chiếm phần lớn, tới 2/3 hoạt động thuê ngoài dịch vụ (OECD, 2000: 15).
- kế toán và thuế (14%) và nghiên cứu-triển khai là những ngành dịch vụ mà các công ty có khả năng thuê ngoài nhiều nhất (OECD .
- Công nghệ thông tin là dịch vụ được thuê ngoài nhiều nhất hiện nay.
- Ấn Độ và Trung Quốc là hai quốc gia thực hiện thuê ngoài dịch vụ công nghệ thông tin hàng đầu.
- Các yếu tố chính khiến các công ty thuê ngoài dịch vụ bao gồm (2).
- Xu hướng thứ năm: FDI vào ngành dịch vụ tăng nhanh và vượt quá FDI vào ngành chế tạo.
- Trong giai đoạn tổng lượng vốn đầu tư trực tiếp nước ngoài (FDI) toàn cầu vào lĩnh vực dịch vụ đã tăng hơn bốn lần.
- Năm 2002, ngành dịch vụ chiếm hơn 60% tổng lượng vốn FDI toàn cầu, so với mức dưới 50% một thập kỷ trước đó.
- Xu hướng FDI vào ngành dịch vụ tăng nhanh xuất hiện từ những năm 1990 do các nhà cung cấp dịch vụ tăng cường thiết lập sự “hiện diện thương mại” tại các thị trường nước ngoài.
- Song FDI vào các lĩnh vực như giáo dục, y tế, các dịch vụ cá nhân và xã hội còn hạn chế..
- Các yếu tố thúc đẩy FDI vào lĩnh vực dịch vụ gồm có:.
- Xu hướng thứ sáu: Thương mại dịch vụ (quốc tế) gia tăng song tỷ trọng vẫn kém xa thương mại hàng hoá.
- Trong giai đoạn thương mại dịch vụ của thế giới tăng 6,4%/năm, cao hơn mức tăng trưởng 5,9% của thương mại hàng hoá (WTO, 1999, trích bởi OECD, 2000: 25).
- Tuy nhiên, thương mại dịch vụ ngày nay vẫn chỉ chiếm khoảng 20% tổng kim ngạch thương mại hàng hoá và dịch vụ (OECD .
- Xu hướng gia tăng của thương mại dịch vụ có các đặc điểm sau:.
- Thương mại dịch vụ chủ yếu tập trung ở các nền kinh tế phát triển.
- Năm 2004, 20 nền kinh tế phát triển hàng đầu của thế giới chiếm đến 75% tổng xuất khẩu dịch vụ của thế giới.
- Thương mại dịch vụ dường như còn là lợi thế của các nền kinh tế phát triển xét theo cán cân thương mại.
- Thí dụ, kể từ năm 1971, Mỹ luôn đạt thặng dư trong xuất khẩu dịch vụ.
- Năm 2005, thặng dư trong thương mại dịch vụ của Mỹ đã đạt tới 56,3 tỷ USD (US service economy overview, web).
- Hai là thương mại của các ngành dịch vụ gia tăng không đều.
- Trong các ngành dịch vụ thì xuất khẩu dịch vụ máy tính và dịch vụ thông tin tăng nhanh nhất, bình quân 20%/năm, tiếp đó là xuất khẩu dịch vụ bảo hiểm (17%/năm) và dịch vụ tài chính (9,7%/năm).
- Ba là phương thức “hiện diện thương mại” trong thương mại dịch vụ ngày càng phổ biến.
- Xu hướng này hoàn toàn phù hợp với xu hướng gia tăng FDI trong ngành dịch vụ.
- Thương mại dịch vụ cũng chịu tác động của nhiều yếu tố như đầu tư vào ngành dịch vụ nói trên.
- Yếu tố cơ bản thúc đẩy thương mại dịch vụ là công nghệ thông tin đã tạo điều kiện cho nhiều ngành dịch vụ, đặc biệt là dịch vụ kinh doanh, có khả năng mua bán được (FORFAS, 2006: 31).
- Xu hướng thứ bảy: Năng suất trong ngành dịch vụ không tăng nhanh.
- Mặc dù lao động trong ngành dịch vụ ngày một nhiều song năng suất của ngành dịch vụ lại không tăng nhanh.
- Tại nhiều nền kinh tế, đóng góp của ngành dịch vụ cho tăng năng suất của toàn nền kinh tế rất hạn chế, đặc biệt là khi so với tỷ trọng ngày một tăng của ngành dịch vụ trong nền kinh tế.
- Mức tăng năng suất ngành dịch vụ của các nền kinh tế OECD.
- M ột số ngành dịch vụ có mức tăng cao.
- M ột số ngành dịch vụ có mức tăng thấp.
- Năng suất trong ngành dịch vụ tăng chậm do hai nguyên nhân chính..
- Một là do đặc thù của một số ngành dịch vụ là năng suất thấp, không chỉ là những ngành sử dụng nhiều lao động thủ công (như các dịch vụ xã hội và cộng đồng, khách sạn và nhà hàng) mà cả những ngành đòi hỏi nguồn lao động có kỹ năng (như y tế và giáo dục).
- Hai là các số liệu cho thấy năng suất trong ngành dịch vụ tăng chậm có thể là do sai số thống kê.
- Thí dụ, mọi người đều nhận thấy tiến bộ khoa học kỹ thuật làm thay đổi quá trình sản xuất và cung ứng dịch vụ, qua đó làm tăng năng suất trong các ngành dịch vụ phân phối, viễn thông và một số phân ngành của lĩnh vực tài.
- Những hàm ý cho sự phát triển của ngành dịch vụ Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và cải cách.
- Bảy xu hướng phát triển của ngành dịch vụ trên thế giới nói trên đã và đang đặt ra những vấn đề lớn đối với sự phát triển của ngành dịch vụ Việt Nam trong thời kỳ hội nhập và cải cách kinh tế hiện nay..
- Thứ nhất, quan niệm truyền thống cho rằng ngành dịch vụ chỉ có thể phát triển tốt được khi nền kinh tế đạt tới một trình độ phát triển nhất định (Rostow, 1959).
- Theo đó, những nền kinh tế nông nghiệp sẽ phải trải qua giai đoạn công nghiệp hoá để có đủ điều kiện xây dựng và phát triển nền kinh tế dịch vụ.
- 2006: 73) trước đây đã từng khuyến nghị rằng Việt Nam nên ưu tiên phát triển ba ngành dịch vụ mũi nhọn là viễn thông, giáo dục-đào tạo và dịch vụ kinh doanh.
- Ngành dịch vụ ngân hàng và chứng khoán là ngành có tốc độ tăng trưởng nhanh nên sẽ là động lực thúc đẩy và có tác động lớn đến sự ổn định phát triển kinh tế vĩ mô.
- dịch vụ khác như ngành dịch vụ công nghệ thông tin phát triển, qua đó giúp Việt Nam từng bước tiến vào nền kinh tế dịch vụ, nhất là nền kinh tế dịch vụ tri thức đang trở thành xu thế phát triển chung của thế giới..
- Thứ hai, trong quá trình cải cách và mở cửa kinh tế, ngành dịch vụ của Việt Nam nói chung và các ngành dịch vụ ưu tiên nói trên không thể tránh khỏi những xáo động nhất định.
- Các ngành dịch vụ ngân hàng và chứng khoán, giáo dục đại học và sau đại học và khoa học-công nghệ vốn thuộc độc quyền nhà nước hoặc được nhà nước hỗ trợ nhiều đang từng bước mở cửa, cạnh tranh với bên ngoài hoặc phát triển độc lập.
- Những năm gần đây, trong xu thế chung của thế giới, ngành dịch vụ ngân hàng và dịch vụ chứng khoán của Việt Nam đã phát triển hết sức nhanh chóng.
- Vì thế, phát triển ngành dịch vụ ngân hàng và chứng khoán đòi hỏi phải cải cách cơ sở hạ tầng của hai ngành này là hệ thống ngân hàng và thị trường chứng khoán hiện nay.
- Tương tự, phát triển ngành dịch vụ giáo dục đại học và sau đại học và khoa học-công nghệ phải đi kèm với cải cách hệ thống giáo dục (đại học và sau đại học) và nghiên cứu khoa học trong nước, không chỉ theo hướng tự do cạnh tranh để nâng cao chất lượng mà còn phải gắn với những định hướng rõ ràng (như về ngành nghề cần đào tạo và lĩnh vực cần nghiên cứu) để hai ngành này đáp ứng đúng yêu cầu của nền kinh tế và không lãng phí nguồn lực trong nước và nguồn tài trợ bên ngoài..
- Cùng với xu thế FDI vào lĩnh vực dịch vụ gia tăng thì xu thế thuê ngoài và xuất khẩu dịch vụ cũng đang chuyển từ chỗ là thách thức sang trở thành cơ hội cho ngành dịch vụ của Việt Nam phát triển.
- Vì vậy, các doanh nghiệp dịch vụ tư nhân vừa và nhỏ có thể tận dụng cơ hội thuê ngoài.
- để phát triển, không chỉ là những cơ hội ở trong nước mà còn có thể hoà mình vào mạng lưới cung ứng dịch vụ khu vực và thế giới.
- FDI và “thuê ngoài” trong ngành dịch vụ tăng sẽ thúc đẩy xuất khẩu các sản phẩm dịch vụ.
- Trong ba ngành dịch vụ ưu tiên kể trên thì ngành dịch vụ khoa học - công nghệ có nhiều cơ hội để thực hiện “thuê ngoài”.
- và xuất khẩu hơn cả và chính bằng cách này thì ngành dịch vụ khoa học - công nghệ của Việt Nam sẽ có điều kiện để tiến bộ và phát triển vững mạnh hơn..
- Thứ tư, xu hướng trên thế giới cho thấy năng suất bình quân trong ngành dịch vụ không cao và cũng không tăng nhanh là thách thức lớn cho Việt Nam khi muốn nâng cao chất lượng của nền kinh tế.
- Tóm lại, bằng cách chú trọng phát triển ba ngành dịch vụ: dịch vụ ngân hàng và chứng khoán để tạo ra tốc độ tăng trưởng cao.
- [2] Bộ Kế hoạch và Đầu tư và Chương trình phát triển của Liên hợp quốc, Khung khổ cho chiến lược quốc gia phát triển khu vực dịch vụ ở Việt Nam đến năm 2020.