« Home « Kết quả tìm kiếm

Đề tài: Thực trạng hoạt động liên kết kinh tế trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- Thực trạng hoạt động liên kết kinh tế trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
- Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt may Việt Nam.
- Ý kiến của các doanh nghiệp dệt.
- Ý kiến của các doanh nghiệp may.
- Hoạt động sản xuất kinh doanh giữa các doanh nghiệp thuộc các thành phần kinh tế khác nhau chưa có sự liên kết, phối hợp chặt chẽ với nhau.
- Mỗi doanh nghiệp độc lập là một tế bào của nền kinh tế nó không ngừng vận động phát triển dưới sự tác động của quy luật kinh tế khách quan .
- Liên kết kinh tế giữa các doanh nghiệp để tích lũy vốn tăng khả năng sản xuất nâng cao trình độ xã hội hóa của nền sản xuất là xu thế khách quan..
- Cạnh tranh để giành ưu thế trong sản xuất và tiêu thụ sản phẩm là quy luật vốn có của các doanh nghiệp trong nền kinh tế theo cơ chế thị trường.
- Các doanh nghiệp phát triển quan hệ liên kết kinh tế để tăng sức mạnh thực hiện cạnh tranh thắng lợi với các đối thủ khác trong nước.
- Liên kết để tạo và sử dụng nguyên liệu : Liên kết kinh tế giữa doanh nghiệp chế biến công nghiệp với cơ sở khai thác sản xuất nguyên liệu nguyên thủy.
- Liên kết ngang : Liên kết giữa các doanh nghiệp cùng sản xuất mặt hàng , nhóm sản phẩm tương tự.
- giữa các doanh nghiệp khai thác,chế biến tiêu thụ.
- Liên kết giữa các doanh nghiệp sản xuất chế biến từng bộ phận chi tiết để lắp ráp thành sản phẩm hoàn chỉnh.
- Lĩnh vực may yêu cầu nhân lực ít nhất và tinh quy mô về kinh tế thấp nhất nên thu hút nhiều doanh nghiệp vừa và nhỏ.
- Ủy ban Kế Hoạch nhà nước giao chỉ tiêu sản xuất cho các doanh nghiệp dệt nhuộm, may nên hoạt động sản xuất lưu thông hoàn toàn dựa vào kế hoạch.
- Ủy ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ tiêu cho cácn doanh nghiệp may.
- Các doanh nghiệp may căn cứ vào đó để tính số lượng nguyên vật liệu đầu vào rồi trình lên ban Ủy ban Kế hoạchvề các doanh nghiệp dệt có thể đáp ứng yêu cầu.
- Sau đó căn cứ vào các đề nghị này, Ủy ban Kế hoạch lại giao các chỉ tiêu sản lượng cho các doanh nghiệp dệt nhuộm ấn trình về giá và ngày giao hàng.
- Cuối cùng, Ủy ban Kế hoạch Nhà nước giao chỉ thị cho doanh nghiệp sợi sản xuất lượng sợi cần thiết như kế hoạch được trình bày ở trên..
- Trong nèn kinh tế kế hoạch, nối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt, nhuộm, may rất mật thiết.
- Các doanh nghiệp may tiến hành sản xuất theo thiết kế, số lượng và giá đã được Ủy ban Kế hoạch nhà nước quy định.
- Các doanh nghiệp này thường xuyên nắm bắt những thông tin như loại vải nào thì sản xuất ở doanh nghiệp nào và giữ mối quan hệ mật thiết với các doanh nghiệp nhuộm.
- Theo hiệp định này, Chính phủ Việt Nam nhập khẩu nguyên liệu tuqf Liên Xô để tiến hành sản xuất hàng may măc tại cácn daonh nghiệp nhà nứớc, sau đó xuất khẩu trở lại Liên Xô.Quy định này đã làm giảm hẳn nhu cầu đối với các sản phẩm của các doanh nghiệp nhuộm và dệt trong nước và mối quan hệ mật thiế giữa các doanh nghiệp cũng bị rạn nứt.
- Viếc các doanh nghiệp dệt, nhuộm đầu tư vào ngành may đã đẩy nhanh rạn nứt này.Các.
- nhà doanh nghiệp dệt nhuộm cùng hoạt động trong cả lĩnh vực may và để tồn tại họ cần nhận được những đơn đặt hàng gia công ủy thác từ Liên Xô.
- Các doanh nghiệp trong các lĩnh vực dệt, nhuộm, may từ mối quan hệ hợp tác đã trở thành đối thủ cạnh tranh của nhau.
- Thực trạng hoạt động liên kết kinh tế trong các doanh nghiệp dệt may Việt Nam..
- Liên kết giữa khâu dệt và khâu may có thể góp phần nâng cao chất lượng nguyên liệu cho các doanh nghiệp may do ngành dệt có thể bám sát hơn nhu cầu cửa ngành may về các nguyên liệu.
- Vì vậy, nếu được cung cấp vải và phụ liệu ổn địnhtrong nước, các doanh nghiệp may sẽ giảm bót được rủi ro trông xuất khẩu..
- Để bảo đảm chất lượng sợi, các doanh nghiệp sợi không thể.
- 2.2 Mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt và may Việt Nam..
- Điểm yếu nhất của ngành dệt nước ta hiện nay là chưa đủ khả năng đáp ứng các loại vải cho các doanh nghiệp may hàng xuất khẩu cả về số lượng chủng loại và chất lượng.
- Theo đánh giá của các doanh nghiệp và các tổ chức liên quan mối quan hệ dệt may ở Việt Nam hiện nay còn thấp và chưa hiệu quả.
- Quan hệ dệt may được thể hệ qua nhiều hình thức các doanh nghiệp dệt cung cấp nguyên liệu cho các doanh nghiệp may, các doanh nghiệp may tự cung cấp cho mình bắng sản phẩm tự sản xuất, quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp dệt với nhau và với các doanh nghiệp may nhằm đảm bảo nguyên liệu và tiêu thụ sản phẩm của nhau hỡ trợ lẫn nhau..
- Bảng 4 cho thấy nguồn nguyên liệu nhập khẩu của các doanh nghiệp may chiếm 50 % tổng nguồn nguyên liệu tuy nhiên khả năng đáp ứng nhu cầu về nguyên liaauj của các doanh nghiệp dệt trong nước đối với các doanh nghiệp may thực tế còn thấp hơn nhiều so với cong số nói trên nhất là đối với các sản phẩm may xuất khẩu.
- Không những không tận dụng được liên kết dệt may mà còn gay mất chủ động trong quá trình hoạt động của cả doanh nghiệp dệt và may.
- Điều này cho thấy ngay trong Tổng công ty thì mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt và các doanh nghiệp may cũng chưa được khăng khít..
- Về liên kết thượng nguồn các doanh nghiệp dệt kết quả điều tra cho thấy các doanh nghiệp dệt tự sản xuất sợi đặc biệt là các doanh nghiệp dẹt Nhà nước .
- Số này chiềm đến 11/14 doanh nghiệp.
- Các doanh nghiệp này còn cho rằng vải sợi trong nước không đáp ứng được yêu cầu các doanh nghiệp may.
- Mặt khác các dệt mua sợi trong nuocs hoặc nước ngoài cho rằng vải sợi trong nước có thể đáp ứng được yêu cầu các doanh nghiệp may trong nước.
- 20 trong số doanh nghiệp được điều tra cho biết họ đã thiết lập được quan hệ với các doanh nghiệp sợi trong nước .
- Nhưng 15 doanh nghiệp trong số này cho biết mối quan hệ của họ từ trước đến nay thường không được suôn sẻ .
- Lý do chủ yếu là do chất lượng của sợi không đảm bảo đúng yêu cầu , cac doanh nghiệp cho rằng sản phẩm sợi trong nước nói chung không đpas ứng được yêu cầu đối với các doanh nghiệp dệt.
- Về liên kết hạ nguồn của các doanh nghiệp dệt .
- Hầu hết các doanh nghiệp dệt với các doanh nghiệp may tronng nước .
- Trong đó 80 % cho rằng họ có mối quan hệ lâu dìa vói các doanh nghiệp may.
- Các doanh nghiệp còn lại phân phối sản phẩm thông qua hình thức bán sỉ hoặc xuất khẩu toàn bộ .
- Kết quả tìm hiểu ý kiến các doanh nghiệp dệt về chất lượng vải sợi nội địa cho thấy : Gần 50% số doanh nghiệp dệt cho rằng hiện tại vải sợi nội địa không đáp ứng được yeu cầu các doanh nghiệp may.
- Ý kiến này được các doanh nghiệp may khẳng định là chính xác.Theo các doanh nghiệp này chất lượng vải sợi nội địa không dáp ứng được những đơn hàng có yêu cầu chất lượng cao đặc biệt là những đơn hàng xuất khẩu.
- Điều đáng chú ý là 80 % số doanh nghiệp trong mẫu điều tra cho rằng mối quan hệ giữa các doanh nghiệp dệt và may đang được khai thác ở mức thấp và không hiệu quả..
- Nguyên nhân dẫn đến mối quan hệ dệt may không thành công 3.1 Ý kiến doanh nghiệp dệt.
- Theo ý kiến tự đánh giá về khả năng của các doanh nghiệp dệt cung ứng vải cho các doanh nghiệp may, những nguyên nhân cơ bản sau đây dẫn đến tỷ lệ thấp kém của tiêu thụ hàng hóa (vải) trong nội bộ ngành dệt may.
- Các doanh nghiệp dệt tự cho rằng họ chưa chủ động trong việc tìm kiếm khách hàng và hiết kế mẫu mới .
- Đặc biệt trong các doanh nghiệp nhà nước , hoạt động marketing còn thụ động , thậm chí có doanh nghiệp còn bộc lộ chưa thực sự hiểu lợi ích của hoạt động marketing.
- Các đơn hàng về mỗi loại vải của doanh nghiệp may ở Việt Nam có số lượng nhỏ , mầu sắc nhiều, hoa văn phức tạp , thời gian ngắn.
- gây khó khăn cho các doanh nghiệp dệt trong tổ chức sản xuất và bảo đảm giá bán cạnh tranh.
- Chất lượng vải chưa đáp ứng được yêu cầu của doanh nghiệp may do bông, xơ, sợi chất lượng thấp, năng lực hoàn tất kém.
- Một số khách hàng nước ngoài có khuynh hướng chỉ định nhà cung cấp vải ở nước thứ ba làm cho các doanh nghiệp dệt vải trong nước mất cơ hội tiếp cận các doanh nghiệp may.
- 3.2 Ý kiến của doanh nghiệp may.
- Các doanh nghiệp may mua vải của các doanh nghiệp dệt đưa ra những nguyên nhân cơ bản sau đây:.
- Nếu so sánh các sản phẩm cảu các doanh nghiệp dệt vải sợi trong nước với các sản phẩm nhập khẩu cùng loại thì thông thường các sản phẩm nội địa có giá cao hơn từ 5.
- Khi khách hàng yêu cầu vải bông không được chứa một loại chất hóa học nhất định thì các doanh nghiệp đệt Việt Nam nhiều khi không thể khử được chất đó .
- Ví dụ các doanh nghiệp trong nước không thể dệt được những loại vải như Rincofi, một loại vải chống nhăn để may áo sơ mi.
- Bên cạnh đó, chất lượng cảu vải sợi trong nước giữa các lô hoặc các mẻ thường không ổn định do doanh nghiệp dệt không có công thức chính xác về pha mầu nhuộn.
- Ngoài ra thời gian cung cấp cũng không ổn định, có nhiều trường hợp doanh nghiệp dệt không thể đáp ứng được yêu cầu sản xuất cảu doanh nghiệp may nào đó nhưng do không có nguyên liệu..
- Các doanh nghiệp dệt trong nước thứ chưa đủ sức đáp ứng yêu cầu khách hàng về chất lượng sản phẩm.
- Trình dộ hoàn thiện cảu doanh nghiệp trong nước yếu , nhiều trường hợp doanh nghiệp may đưa mẫu vải , doanh nghiệp dệt thử nhiều lần vẫn không đạt yêu cầu..
- ó ý kiến cho rằng các doanh nghiệp trong nước có phương thức thanh toán thuận tiện hơn: doanh nghiệp may có thể trả tiền sau khi lấy hàng.Đồng thời nếu như chất lượng vải không đạt yêu cầu, doanh nghiệp doanh nghiệp dệt lam lại, hoặc yêu cầu giảm giá.
- Điều này không dễ thực hiện doanh nghiệp dệt nước ngoài do các doanh nghiệp may phải trả tiền trước khi nhận hàng.
- Tuy vậy, hầu hết các ý kiến đều đánh giá rằng các doanh nghiệp dệt trong nước có hình thức thanh toán chưa hợp lí: vải chỉ được giao cho khách hàng khi có đặt cọc, thậm chí thanh toán toàn bộ số tiền .
- mặt hàng vải còn thiếu cả về số lượng và chủng loại.Các doanh nghiệp dệt hiên nay mới chỉ đáp ứng được một số loại vải như cotton, jean, vải dệt kim nhưng chất lượng không ổn định.
- Các doang nghiệp dệt không đủ sức đáp ứng đòi hỏi của doanh nghiệp may về chủng loại, số lượng và thời gian giao hàng.
- Do bị độngtron sản xuất và quản lí chưa tốt, các doanh nghiệp dệt không đáp ứng được cácdown hàng nhỏ, chủng loại nhiều (là xu hướng hiện nayddoiws với nhu cầu may mặc.
- Các doanh nghiệp dệt không thể đáp ứng kịp thời yêu cầu của khách hàng về điều chỉnh mẫu mã , các yếu tố kỹ thuật..
- Tóm lại, mặc dù nhu cầu về vải trong nước rất cao nhưng các doanh nghiệp dệt không đáp ứng được.
- Hầu hết vải của các doanh nghiệp dệt Việt Nam chỉ đáp ứng những nhu cầu nội địa ở trình độ thấp và trung bình..
- Nguồn lực tài chính tự có của Tổng công ty dệt - may và các doanh nghiệp có bằng việc phát huy nỗ lực bản thân các doanh nghiệp và sự trợ lực Nhà nước.
- Cho phép Tổng công ty dệt may, đơn vị chủ lực của ngành dệt may Việt Nam được phép phát hành trái phiếu doanh nghiệp để huy động vốn trong và ngoài nước đầu tư cho phát triển công nghiệp sợi dệt.
- Nếu các doanh nghiệp may mặc có thể phân bố tương đối tự do thì các doanh nghiệp sợi dệt cần được phân bố tập trung theo các cụm (chẳng hạn trong các khu công nghiệp).
- Tạo thuận lợi cho việc xác định quy mô doanh nghiệp , phát triển các doanh nghiệp có quy mô vừa và (10 - 15 triệu m vải / năm.
- Trong giai đoạn hiện nay, việ thiết lập mối quan hệ liên kết giữa các doanh nghiệp với các cơ sở đào tạo và tăng cường đầu tư trang bị lại cơ sở vật chất phục vụ giảng dạy và nâng cao chất lượng đội ngũ cán bộ giáo viên cần được coi là giải pháp trọng tâm..
- Hiện tại đang có xu hướng dịch chuyển lao đọng từ các doanh nghiệp dệt may nhà nước sang các doanh nghiệp ngoài nhà nước và dịch chuyển lao động từ ngành dệt may sang các ngành kinh tế khác .Sự chênh lệch về mức thu nhập, điều kiện lao động và cường độ lao động.
- Tổ chức phổ biến các thông tin về pháp luật và chính sách của Nhà nước trong khuyến khích doanh nghiệp tham gia liên doanh, liên kết..
- -Chọn từ 3 đến 4 doanh nghiệp Nhà nước đủ mạnh làm nòng cốt ở các khâu: Sợi, dệt, may.
- Đây là những doanh nghiệp đầu đàn giữ vai trò chủ đạo để thu hút các doanh nghiệp thuộc các thành phần khác làm vệ tinh..
- Mỗi doanh nghiệp cần chuyên môn hoá, làm chủ một vài công nghệ để tạo ra những mặt hàng có chất lượng cao..
- Khu vực kinh tế dân doanh sản xuất các sản phẩm cần đến kỹ thuật thủ công và sự khéo léo: Lụa tơ tằm, thảm len và làm vệ tinh sản xuất sợi, vải thô cung cấp cho doanh nghiệp lớn hoàn thiện..
- Cho đến nay, lượng vải mà các doanh nghiệp dệt cung cấp cho các doanh nghiệp may để sản xuất hàng xuất khẩu chỉ chiếm khoàng 30.
- xử lý những tồn tại sau khi giao hàng cũng chưa tốt và các doanh nghiệp may cũng chưa mặn mà trong việc chào mẫu nguyên phụ liệu trong nước sản xuất cho khách đặt hàng..
- để có thể đưa ra chào mẫu vải cho doanh nghiệp may (cho người đặt hàng) trước từ 6 - 9 tháng thì mới có thể chào vải cho mùa may mặc hàng năm..
- Các doanh nghiệp dệt cần chủ động tổ chức các phòng giới thiệu vải và phụ liệu chung để khi có khách hàng may thì cả hai bên (dệt và may) cùng chào mẫu vải để khách hàng lựa chọn một cách thuận tiện nhất..
- Các doanh nghiệp phải chuyển từ thế bị động sang thế chủ động để thoát khỏi sự phụ thuộc vào khách hàng nước ngoài.
- việc chuẩn bị sản xuất vải theo mùa đòi hỏi sự cố gắng rất lớn của các doanh nghiệp dệt thì mới làm được.
- Rõ ràng là đã nhiều năm nay, Vinatex đã rất quan tâm đến mối liên kết nội bộ giữa các doanh nghiệp dệt và doanh nghiệp may nhưng xem ra các giải pháp đưa ra vẫn chưa mang lại kết quả như mong đợi bởi vì chất lượng nguyên phụ liệu sản xuất trong nước không theo kịp đòi hỏi của thị trường..
- Mức độ phát triển liên kết kinh tế còn phụ thuộc vào các yếu tố công nghệ, thiện chí hợp tác của các chủ doanh nghiệp, trình độ quản lý doanh nghiệp....
- Song hiện nay, việc liên kết kinh tế của các doanh nghiệp dệt may chưa thực sự đạt được hiệu quả mong muốn.
- Nguồn vải, sợi dệt trong nước chưa đáp ứng được yêu cầu cửa các ngành may trong nước nhất là các doanh nghiệp xuất khẩu.
- Điêu đó đòi hỏi các doanh nghiệp phải có những bước đi đúng đắn để có thể nắm lấy cơ hội, đương đầu với thách thức.
- Trong bối cảnh chung đó, các doanh nghiệp dệt may càng cần phải liên kết chặt chẽ hơn, tự hoàn thiện, đổi mới nâng cao mình để hàng may mặc Việt Nam có thể cạnh tranh và đững vững trên thị trường thế giới.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt