« Home « Kết quả tìm kiếm

NHỮNG QUAN HỆ CƠ BẢN CẦN GIẢI QUYẾT ĐỂ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG VÙNG TRONG BỐI CẢNH HỘI NHẬP QUỐC TẾ HIỆN NAY


Tóm tắt Xem thử

- Quan niệm về phát triển bền vững và phát triển vùng bền vững Quan niệm về phát triển bền vững.
- Xã hội là một kết cấu vật chất vô cùng phức tạp.
- Sự phát triển của xã hội cũng là một quá trình vận động phức tạp, bao gồm nhiều hệ thống các mối quan hệ tác động với nhau.
- Trong lịch sử đã có nhiều quan niệm về sự phát triển xã hội.
- Có người cho rằng phát triển xã hội là sự tăng trưởng về kinh tế, chẳng hạn tăng quy mô của sản xuất, hoặc tăng trình độ của lực lượng sản xuất, tăng năng suất lao động xã hội.
- Có người lại cho rằng phát triển xã hội là làm cho mức thu nhập của nhân dân tăng lên, đời sống về vật chất và tinh thần của con người tăng lên năm sau cao hơn năm trước v.v.
- Nhưng sự tăng về quy mô sản xuất, hay tăng năng suất lao động xã hội vẫn có thể không làm cho đời sống về vật chất và tinh thần của nhân dân lao động được cải thiện, bởi vì không có sự công bằng xã hội.
- Đó là sự phát triển không đều và không toàn diện.
- Từ đó cần phải có quan niệm về sự phát triển lâu bền hay vững chắc.
- Thế nào là sự phát triển bền lâu và vững chắc, hay phát triển bền vững? Đây là khái niệm cần xác định.
- Việc hình thành khái niệm này là kết quả của quá trình nhận thức về mối quan hệ giữa con người và thế giới xung quanh, giữa hoạt động của con người, của xã hội với môi trường tự nhiên..
- Ban đầu, với năng lực sản xuất của con người còn thấp kém, người ta quan niệm tự nhiên như là môi trường sống có thể cung cấp mọi thứ.
- Quan niệm về phát triển chỉ là sự sự tăng năng lực sản xuất, tăng khả năng khai thác tự nhiên của con người.
- Nhưng về sau người ta thấy, theo đuổi sự phát triển nhằm thỏa mãn những nhu cầu bức thiết của cộng đồng xã hội đã đưa đến những hậu quả về môi trường và xã hội mà không ai không thừa nhận là: Sự cạn kiệt nguồn tài nguyên thiên nhiên.
- sự gia tăng dân số quá nhanh, dẫn đến tình trạng đói nghèo, tình trạng dân trí thấp, ảnh hưởng đến vấn đề an ninh, trật tự an toàn xã hội.
- tình trạng ô nhiễm môi trường.
- những đợt giá rét, các trận mưa bão dữ dội phá hoại nhiều cơ sở vật chất, gây thiệt hại nhiều người và tiền của cho xã hội.
- Còn rất nhiều những hậu quả khác nữa, cuối cùng lại gây cản trở sự phát triển xã hội..
- Vậy, phát triển xã hội không thể thực hiện được nếu không tính đến việc bảo vệ môi trường tự nhiên, môi trường sống của con người.
- Sự phát triển chỉ nhằm khai thác tự nhiên càng nhiều càng tốt là không bền vững.
- Quan niệm về phát triển bền vững được nêu ra chính trong bối cảnh vấn đề môi trường tự nhiên bị đe dọa do con người khai thác quá mức để phát triển xã hội vì nhu cầu của con người, không tuân thủ các quy luật phát triển của tự nhiên.
- Trước những nguy cơ về môi trường, các hội nghị quốc tế về môi trường từ những năm 70 và 80 của thế kỷ XX đã đưa ra những chương trình hành động để bảo vệ môi trường..
- Năm 1972 Hội nghị quốc tế về môi trường họp tại Xtốc‑khôm (Thụy Điển) đã nêu lên thực trạng nạn ô nhiễm môi trường và sự nguy hại của nó đối với cuộc sống toàn nhân loại.
- Năm 1980, Hiệp hội quốc tế về bảo vệ thiên nhiên và tài nguyên thiên nhiên (IUCN) đã đưa ra “Chiến lược bảo toàn thế giới” nhằm mục tiêu phát triển bền vững và bảo vệ môi.
- Chương trình môi trường của Liên hợp quốc (UNEP) cũng đưa ra khái niệm phát triển bền vững với 3 nội dung: phát triển bền vững về môi trường sinh thái.
- phát triển bền vững về xã hội.
- bước đầu đề cập đến sự phát triển bền vững về kinh tế.
- Năm 1987, tại Hội nghị quốc tế về môi trường, Ủy ban thế giới về môi trường và phát triển (WCED) của Liên hợp quốc đã công bố “Báo cáo Tương lai của chúng ta”, trong đó thống nhất quan niệm về phát triển bền vững: “Phát triển bền vững là sự phát triển nhằm thỏa mãn nhu cầu của thế hệ hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai”..
- Hội nghị Thượng đỉnh trái đất họp tại Ri‑ô đờ Gia‑nây‑rô (Bra‑xin) năm 1992 đã đề ra Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững toàn cầu (trong đó có 2.500 khuyến nghị hành động) và Hội nghị Thượng đỉnh thế giới về phát triển bền vững họp tại Giô‑han‑ne‑xbuốc (Cộng hòa Nam Phi) năm 2002 để đánh giá 10 năm thực hiện Chương trình Nghị sự 21, quan niệm về sự phát triển bền vững nêu trong “Báo cáo Tương lai của chúng ta” lại được khẳng định và cụ thể hóa thêm một số nội dung: Phát triển bền vững là quá trình phát triển có sự kết hợp chặt chẽ, hợp lý, hài hòa giữa 3 mặt của sự phát triển là phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường nhằm thỏa mãn nhu cầu ngày càng đa dạng của đời sống con người trong hiện tại mà không làm tổn hại đến khả năng thỏa mãn nhu cầu của các thế hệ tương lai..
- Quan niệm về sự phát triển bền vững trên đây cho thấy: để thực hiện mục tiêu phát triển bền vững, cần đảm bảo 3 điều kiện cơ bản: 1‑ Muồn phát triển bền vững về kinh tế cần phải đầu tư có hiệu quả và duy trì được tốc độ tăng trưởng cao, ổn định trong một thời gian dài.
- 2‑ phát triển bền vững về xã hội cần phải gắn tăng trưởng, phát triển kinh tế với thực hiện tiến bộ, công bằng xã hội, bảo vệ và phát triển bản sắc văn hóa dân tộc.
- 3‑ muốn phát triển bền vững về môi trường cần phải khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên một cách hợp lý, sử dụng tiết kiệm, có hiệu quả, bảo vệ được môi trường và tính đa dạng sinh học.
- Ba mặt trên đây có quan hệ mật thiết với nhau, tác động với nhau và tạo điều kiện cho nhau phát triển lâu bền..
- Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững toàn cầu đã được Chính phủ Việt Nam hưởng ứng.
- chương trình Nghị sự về sự phát triển bền vững trong thế kỷ XXI ở Việt Nam, gọi là Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt theo Quyết định số 153/QĐTTg ngày 17‑8‑2004 và được xây dựng trên 8 nguyên tắc là:.
- Con người là trung tâm của phát triển bền vững..
- Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm của giai đoạn phát triển sắp tới, đảm bảo an ninh lương thực, năng lượng để phát triển bền vững, kết hợp chặt chẽ, hợp lý hài hòa với phát triển xã hội.
- khai thác hợp lý, sử dụng hiệu quả tài nguyên thiên nhiên trong giới hạn cho phép về mặt sinh thái và bảo vệ môi trường..
- Bảo vệ và cải thiện chất lượng môi trường phải được coi là một yếu tố không thể tách rời trong quá trình phát triển..
- Quá trình phát triển phải đảm bảo đáp ứng một cách công bằng nhu cầu của thế hệ hiện tại và không gây trở ngại tới cuộc sống của các thế hệ tương lai..
- Khoa học công nghệ là nền tảng và động lực cho công nghiệp hóa, hiện đại hóa, thúc đẩy phát triển nhanh mạnh và bền vững đất nước..
- Phát triển bền vững là sự nghiệp của toàn Đảng, các cấp chính quyền, các bộ, ngành và địa phương, của các cơ quan doanh nghiệp, đoàn thể xã hội, các cộng đồng dân cư và mọi người dân..
- Gắn chặt việc xây dựng nền kinh tế độc lập tự chủ với chủ động hội nhập kinh tế quốc tế để phát triển bền vững đất nước..
- Kết hợp chặt chẽ giữa phát triển kinh tế, phát triển xã hội và bảo vệ môi trường với đảm bảo quốc phòng, an ninh và trật tự an toàn xã hội” 1.
- Chương trình nghị sự 21 của Việt Nam về phát triển bền vững với những nội dung cơ bản trên đây thể hiện quan điểm của Đảng về phát triển bền vững nói chung và phát triển bền vững vùng khi đặt sự phát triển của Việt Nam trong hệ thống các mối quan hệ trong nước và quan hệ quốc tế..
- Trần Nguyễn Tuyên (2006), Phát triển bền vững – Kinh nghiệm quốc tế và định hướng của Việt Nam, Tạp chí Lý luận chính trị, Số 2, tr.46..
- Phát triển vùng bền vững là gì?.
- Căn cứ vào đặc điểm về tự nhiên hoặc đặc điểm về xã hội mà người ta có thể phân chia không gian thành các vùng khác nhau.
- Mỗi vùng với những đặc điểm về tự nhiên và xã hội của nó có vị trí nhất định đối với quốc gia và quốc tế.
- Mặt khác sự phát triển của mỗi vùng cũng không tách rời sự phát triển chung của các vùng khác, của toàn thể quốc gia và quốc tế..
- Trước đây ở nước ta, trong nền kinh tế tự cấp tự túc, sự phát triển kinh tế, xã hội khép kín trong phạm vi làng xã, hoặc một địa phương tương đối nhỏ hẹp, tách rời với các địa phương khác.
- Sự tách rời, khép kín như vậy đã cản trở việc phát huy các ưu thế của địa phương và dẫn đến cản trở sự phát triển của địa phương nói riêng và của toàn thể quốc gia nói chung, làm cho nước ta chậm phát triển so với các nước khác trên thế giới..
- Trong xu thế hội nhập vào nền kinh tế thế giới hiện nay, sự phát triển kinh tế, xã hội của từng vùng cũng như của cả quốc gia dân tộc đang đứng trước nhiều thời cơ thuận lợi, nhưng đồng thời cũng đứng trước.
- Vấn đề đặt ra ở đây là phải phát triển vùng như thế nào để có thể phát huy được thế mạnh, tiềm năng của vùng và duy trì sự phát triển đó một cách bền vững.
- Tiềm năng của vùng là những đặc điểm vốn có, có thể bắt nguồn từ điều kiện tự nhiên, có thể do sự phát triển lịch sử, xã hội lâu đời tạo nên.
- Tuy nhiên tiềm năng đó được thực hiện trên thực tế như thế nào lại tùy thuộc vào trình độ phát triển chung của xã hội, nhất là trình độ phát triển của khoa học, công nghệ và sự ứng dụng khoa học, công nghệ vào sản xuất.
- Thí dụ vùng biển trước đây, khi chưa có công nghệ đóng tàu, chưa có công nghệ khoan thăm dò và khai thác dầu khí dưới đáy đại dương, thì những tiềm năng của biển còn chưa bộc lộ ra, ý nghĩa của vùng biển đối với đời sống kinh tế xã hội của quốc gia, dân tộc không lớn lắm.
- Nhưng khi khoa học công nghệ đã phát triển cho phép khai thác được các nguồn lợi của biển, tức các tiềm năng của biển được thể hiện ra, thì vùng biển có ý nghĩa đặc biệt quan trọng đối với đời sống kinh tế, xã hội của mỗi quốc gia dân tộc và cả quốc tế.
- Vậy xem xét sự phát triển vùng cũng như sự phát triển bền vững của vùng cần phải xem xét toàn diện nhiều mặt, phải xem xét vùng trong sự vận động phát triển trong tiến trình lịch sử, phải đặt sự phát triển vùng trong quan hệ tổng thể của quốc gia và quốc tế..
- Từ những điều phân tích trên đây ta có thể đưa ra một quan niệm khái quát (chưa phải là một định nghĩa khoa học) về phát triển bền vững vùng: đó là sự thiết lập các mối quan hệ toàn diện trên các mặt trong nội bộ vùng và các mối quan hệ tổng thể giữa các vùng trong phạm vi quốc gia và thế giới để phát huy tiềm năng của mỗi vùng đảm bảo lợi ích con người trong điều kiện hiện tại, đồng thời không cản trở, mà tạo điều kiện để đảm bảo lợi ích của các thế hệ con người trong tương lai..
- quan hệ trong nội bộ vùng, quan hệ với các vùng lân cận, quan hệ với tổng thể quốc gia và quốc tê, quan hệ giữa hiện tại với tương lai, quan hệ giữa con người, xã hội với môi trường tự nhiên..
- Một số đánh giá về sự phát triển vùng trong thời kỳ Đổi mới ở Việt Nam.
- Thứ nhất, nhận thức về phát triển bền vững nói chung đã có sự chuyển biến nhất định.
- Điều đó thể hiện ở chỗ Việt Nam đã ủng hộ và hưởng ứng Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững toàn cầu do Hội nghị Thượng đỉnh trái đất họp tại Riô đơ Gia‑nây‑rô (Bra‑xin) năm 1992.
- Chính phủ Việt Nam đã cử đoàn đại biểu do Phó thủ tướng Phạm Gia Khiêm dẫn đầu tham gia Hội nghị Thượng đỉnh về phát triển bền vững toàn cầu diễn ra tại Giô‑han‑ne‑xbuốc (Cộng hòa Nam Phi) tháng 9‑2002.
- Tại đây, đoàn đại biểu của Chính phủ Việt Nam đã trình bày Định hướng phát triển bền vững trong thế kỷ XXI.
- Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam thể hiện sự nhận thức mới của Đảng, Chính phủ và nhân dân Việt Nam về phát triển bền vững, khẳng định: phát triển bền vững (theo khái niệm nêu trong Chương trình Nghị sự 21 về phát triển bền vững toàn cầu) phải trở thành quan điểm chiến lược chung để xây dựng kế hoạch phát triển kinh tế ‑ xã hội của Việt Nam.
- Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam là một kế hoạch chung để thiết kế các chương trình hành động, để phối hợp hành động của các bộ, ngành, từ trung ương đến các địa phương, các tố chức và cá nhân nhằm đạt đến sự phát triển bền vững ở Việt Nam trong thế kỷ XXI..
- Nhận thức về phát triển vùng cũng được thay đổi và phát triển theo tinh thần Chương trình Nghị sự 21 của Việt Nam.
- Nghị quyết Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X viết: “Bằng chính sách thích hợp tạo điều kiện cho tất cả các vùng trong cả nước phát triển nhanh hơn trên cơ sở phát huy lợi thế so sánh, hình thành cơ cấu kinh tế hợp lý của mỗi vùng và liên vùng.
- hiệu quả cao, phát triển nhanh và ổn định, có sức cạnh tranh, khắc phục tình trạng chia cắt, khép kín theo địa giới hành chính” 1 .
- Văn kiện còn viết: “Phát huy thế mạnh của mỗi vùng trọng điểm để các vùng này đóng góp ngày càng lớn cho sự phát triển chung của cả nước và trợ giúp các vùng khó khăn, có năng lực hội nhập kinh tế quốc tế với quy mô lớn và trình độ cao..
- Có chính sách trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển các vùng khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số”.
- Nghị quyết của Đại hội Đảng trên đây đã được cụ thể hoá bằng việc Đảng và Nhà nước đã ban hành nhiều chủ trương, chính sách về phát triển kinh tế‑xã hội của cả nước, xây dựng nhiều chương trình về phát triển kinh tế vùng như chương trình 135 về xây dựng và phát triển miền núi, chương trình xóa đói giảm nghèo, chương trình Tây Bắc, chương trình Tây Nguyên, chương trình Tây Nam Bộ, chương trình xây dựng các vùng kinh tế trọng điểm Bắc, Trung, Nam.
- xây dựng nhiều chương trình, dự án về khai thác, bảo vệ và phát triển môi trường như chương trình 5 triệu ha rừng, chương trình bảo vệ và phát triển rừng đầu nguồn..
- Ngoài ra còn xây dựng các chương trình về phát triển văn hóa xã hội, giáo dục, y tế như chương trình bảo tồn, phát huy di sản văn hóa các dân tộc thiểu số, chương trình cải cách giáo dục, chương trình chăm sóc sức khỏe cộng đồng v.v.
- Thứ hai, nhờ có chuyển biến về mặt nhận thức thể hiện trong việc đề ra các chủ trương, chương trình, dự án, theo đó những năm vừa qua chúng ta đã đạt được một số kết quả thực tế về phát triển của cả nước cũng như phát triển vùng như sau:.
- Tăng trưởng kinh tế với tốc độ khá cao và liên tục trên cả nước và đều ở các vùng.
- nâng cao đời sống vật chất và tinh thần của nhân dân lên mức đáng kể, giải quyết tốt vấn đề đói nghèo, an sinh xã hội.
- giữ vững an ninh chính trị, trật tự an toàn xã hội.
- Sau 20 năm Đổi mới, chuyển sang nền kinh tế thị trường định hướng Xã hội chủ nghĩa, thu nhập quốc dân theo đầu người bình quân cả nước tăng từ 140 USD lên 830 USD (2007), tức tăng 5,9 lần “nhưng mức độ tăng của các vùng không đều từ hơn 2 lần đến 7‑8 lần.
- 2009, Đỗ Thế Tùng: Thời cơ và thách thức đối với sự phát triển bền vững ở Việt Nam, Tạp chí Cộng sản số 7, tr.
- Những kết quả trên đây có ý nghĩa to lớn thể hiện sự nỗ lực phấn đấu của toàn Đảng, toàn dân ta để thúc đẩy xã hội phát triển, tuy nhiên đó chưa phải là sự phát triển bền vững, bên cạnh đó còn nhiều yếu kém..
- Những yếu kém thể hiện sự phát triển vùng chưa bền vững:.
- Thứ hai, chưa có quy hoạch phát triển tổng thể về kinh tế, xã hội trong thời gian dài trên quy mô cả nước và từng khu vực.
- nhưng không tính đến hiệu quá kinh tế.
- Thứ ba, sự tàn phá môi trường tự nhiên rất nghiêm trọng, chưa cân đối giữa phát triển kinh tế‑xã hội với bảo vệ phát triển môi trường tự nhiên và các tài sản văn hóa dân tộc.
- về sự tàn phá môi trường tự nhiên do tăng trưởng kinh tế đơn thuần, nhưng chúng ta có thể dễ dàng nhận thấy sự tàn phá rừng nghiêm trọng đến mức nào.
- Thứ tư, giải quyết vấn đề công bằng xã hội, chống tham nhũng chưa có hiệu quả, ảnh hưởng lớn đến phát triển bền vững vùng.
- Điều đó lại tác động trực tiếp đến toàn bộ các yếu tố, các mặt của quá trình phát triển bền vững của vùng cũng như của cả nước.
- Chính tệ nạn tham nhũng gây nên sự bất công, làm cho công bằng xã hội không thể thực hiện được.
- Điều đó đòi hỏi phải tiếp tục đẩy mạnh hơn nữa cuộc đấu ranh chống tham nhũng mới đảm bảo phát triển bền vững..
- Một số quan hệ cần giải quyết để phát triển vùng bền vững trong bối cảnh hội nhập quốc tế hiện nay.
- Trong bối cảnh hội nhập hiện nay chúng ta có những thuận lợi và thách thức cho phát triển bền vững vùng:.
- Từ tình hình trên đây, để phát triển bền vững vùng cần giải quyết các quan hệ cơ bản sau:.
- Quan hệ giữa tăng trưởng kinh tế và bảo vệ môi trường tự nhiên..
- Tăng trưởng kinh tế trên cơ sở đảm bảo giữ gìn và phát triển môi trường tự nhiên, không phá vỡ sự cân bằng sinh thái, nhất là môi trường nước và không khí..
- Quan hệ giữa thực hiện công bằng xã hội và phát triển kinh tế xã hội.
- Không tăng trưởng kinh tế một cách đơn thuần, gây nên sự chênh lệch quá lớn về mức thu nhập và chất lượng sống giữa các tầng lớp xã hội làm mâu thuẫn xã hội gia tăng, ảnh hưởng không tốt đến an ninh chính trị, trật tự, an toàn xã hội..
- Đó là những mối quan hệ cơ bản để phát triển bền vững vùng trong bối cảnh hiện nay.