« Home « Kết quả tìm kiếm

HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ DU LỊCH QUỐC TẾ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (1996 -2008)


Tóm tắt Xem thử

- HOẠT ĐỘNG DỊCH VỤ DU LỊCH QUỐC TẾ Ở ĐỒNG BẰNG SÔNG CỬU LONG (1996 -2008).
- Trên thế giới, nhiều quốc gia đầu tư phát triển du lịch trở thành ngành công nghiệp “không khói”, góp phần tăng nguồn thu nhập ngoại tệ và phát triển xuất khẩu tại chỗ.
- Đối với Việt Nam, hoạt động dịch vụ du lịch quốc tế là hoạt động khá mới có nguồn thu ngoại tệ, có ý nghĩa quan trọng trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế, được Đảng và Nhà nước quan tâm phát triển bằng những chủ trương và chính sách cụ thể..
- Trong các vùng kinh tế ở nước ta, ĐBSCL đã tham gia phát triển hoạt động dịch vụ du lịch quốc tế, góp phần nâng cao tỷ trọng GDP của vùng và quốc gia..
- Thực trạng du lịch ở ĐBSCL 1.1.
- Tiềm năng du lịch ở ĐBSCL.
- Ở ĐBSCL, doanh số dịch vụ du lịch phát triển ngày càng cao, đã thu hút được lượng lớn du khách quốc tế, cung cấp cho du khách được những sản phẩm du lịch mang tính đặc thù, góp phần quảng bá cho du khách quốc tế hình ảnh đẹp của đất nước Việt Nam, và đã tạo thêm việc làm trực tiếp và gián tiếp cho ngành du lịch, đẩy mạnh xuất khẩu tại chỗ và góp phần phát triển đời sống kinh tế ‑ chính trị trong vùng..
- Tiềm năng phát triển du lịch của ĐBSCL có nguồn gốc tài nguyên thiên nhiên và văn hóa đặc trưng của vùng ĐBSCL:.
- Tài nguyên Du lịch sinh thái, loại tài nguyên được thiên nhiên ban tặng cho người dân ĐBSCL với 2 nhóm: tiềm năng du lịch sinh thái sông nước cửa sông ven biển và biển, nhóm tiềm năng du lịch sinh thái rừng ngập nước mặn và phèn..
- Tài nguyên du lịch văn hóa ‑ lịch sử, tài nguyên này ở ĐBSCL rất phong phú.
- Ngoài ra, ĐBSCL còn có tài nguyên du lịch văn hóa đặc trưng của cư dân ĐBSCL gắn với lễ hội tôn giáo, và lễ hội tín ngưỡng dân gian và các khu di tích văn hóa xếp hạng cấp quốc gia..
- Bên cạnh đó, ĐBSCL còn chứa nguồn tài nguyên du lịch kết hợp kinh tế ‑ hội thảo (MICE), đây là tài nguyên khá mới được nẩy sinh do nhu cầu phát triển của bối cảnh kinh tế ‑ xã hội ĐBSCL.
- Tiềm năng này chủ yếu có thể phát triển ở các tỉnh ‑ thành trung tâm của ĐBSCL như Cần Thơ, Tiền Giang, Kiên Giang..
- Tình hình hoạt động dịch vụ du lịch quốc tế ở ĐBSCL Đến năm 1995, việc Việt Nam bình thường hóa quan hệ với Hoa Kì và gia nhập vào tổ chức ASEAN đã đánh dấu việc phá thế cấm vận, bao vây kinh tế.
- Tận dụng điều kiện quốc tế này Việt Nam đã tổ chức phát triển các hoạt động kinh tế đối ngoại có hiệu quả trên nhiều lĩnh vực..
- Từ 1996 đến nay, việc ra đời của Pháp lệnh du lịch năm 1999 và Luật du lịch năm 2005 cho thấy Việt Nam có những bước tiến mạnh trong việc tạo điều kiện pháp lí để tổ ngành du lịch phát triển..
- Về chiến lược, phát triển du lịch Việt Nam được cụ thể hóa trong các văn bản sau: Quy hoạch phát triển tổng thể du lịch thời kì 1995 ‑ 2010, (tháng 05/ 1995 của Chính Phủ), Chiến lược phát triển Du lịch Việt Nam 2001‑2010 được Thủ tướng Chính phủ phê duyệt tháng 7/2002.
- Chương trình hành động quốc gia về Du lịch được phê duyệt thực hiện có hiệu quả trong giai đoạn 2001‑2005 và Chương trình hành động quốc gia về Du lịch giai đoạn 2006‑2010 đang trình Chính Phủ phê duyệt..
- Và Theo quyết định số: 97/2002/QĐ‑TTg Hà Nội, ngày 22 tháng 7 năm 2002, của Thủ Tướng Chính Phủ về việc Phê duyệt Chiến lược phát triển du lịch Việt Nam 2001 – 2010 thì các tỉnh ĐBSCL thuộc phần phát triển du lịch Việt Nam như sau:“c) Vùng du lịch Nam Trung Bộ và Nam Bộ: Gồm các tỉnh từ Kon Tum đến Cà Mau… và các địa bàn tăng trưởng du lịch là: thành phố Hồ Chí Minh ‑ Nha Trang ‑ Đà Lạt, thành phố Hồ Chí Minh ‑ Cần Thơ ‑ Hà Tiên ‑ Phú Quốc, thành phố Hồ Chí Minh ‑ Vũng Tàu ‑ Phan Thiết.
- Sản phẩm du lịch đặc trưng của vùng là du lịch tham quan, nghỉ dưỡng biển và núi để khai thác thế mạnh du lịch của dải ven biển Nam Trung Bộ và Tây Nguyên, du lịch sông nước, du lịch sinh thái đồng bằng châu thổ sông Cửu Long.”.
- Đây là một thành tựu quan trọng cho thấy được các tiềm năng kinh tế du lịch đã được khơi dòng và chính nó đã đem lại cho vùng nguồn thu ngoại tệ lớn (1 du khách quốc tế chi tiêu tại Việt Nam 76,4 USD/ ngày) 1 .
- Nó thể hiện tính phát triển và sự phù hợp của các chính sách phát triển kinh tế đối ngoại của Việt Nam tại các địa phương ĐBSCL..
- Hình 1: Biểu đồ sự tăng trưởng du khách quốc tế đến ĐBSCL giai đoạn 1996-2008.
- Lí do là sản phẩm phục vụ du khách quốc tế khá đa dạng và có khả năng giữ chân du khách lâu hơn.
- Đó là trường hợp du lịch huyện đảo Phú Quốc: trong số 64,605 lượt đến Kiên Giang năm 2006 thì có đến 46,397 du khách đi Phú Quốc 1.
- Về sản phẩm phục vụ du khách quốc tế, với hệ thống tiềm năng du lịch đặc thù sinh thái và văn hóa dân tộc học của vùng kinh tế ‑ xã hội đa tộc người vùng sông nước.
- Sản phẩm du lịch phục vụ cho du khách quốc tế ở ĐBSCL đa dạng các loại hình.
- Trong đó chủ yếu là các sản phẩm: du lịch sinh thái vùng ngặp nước Đồng Tháp Mười, rừng U Minh;.
- du lịch sinh thái vùng cửa sông Tiền.
- du lịch sinh thái nghỉ dưỡng Phú Quốc.
- du lịch kết hợp thương mại vùng cửa khẩu Hà Tiên, An Giang và trung tâm Cần Thơ.
- du lịch tham quan các công trình văn hóa ‑ lịch sử Tiền Giang, Gò Tháp.
- du lịch hành hương An Giang, Hà Tiên.
- du lịch và tham quan làng nghề truyền thống và văn hóa ẩm thực như Bến Tre, Tiền Giang và Vĩnh Long… và du lịch tham quan lễ hội văn hóa dân tộc Khơme Trà Vinh, Sóc Trăng….
- Ngoài ra, du khách quốc tế còn được tổ chức các dịch vụ phục vụ các sản phẩm ẩm thực đặc trưng, giải trí, du lịch theo yêu cầu du khách đến từ các nước trong khu vực..
- Ủy Ban Nhân Dân tỉnh Kiên Giang, (2007), Báo cáo sơ kết công tác phát triển Du lịch 2 năm (2006 ‑2007) theo nghị quyết số 02 NQ/TU và NQ số 8‑NQ/TU của tỉnh Kiên Giang..
- Tuy nhiên, khả năng phục vụ sản phẩm theo hướng chất lượng cao vẫn chưa được quan tâm đầu tư phát triển phổ biến.
- Trong đó, sản phẩm lợi thế du lịch văn hóa ‑ lễ hội phát triển chưa đồng bộ, chưa được phát triển theo quy mô phù hợp trong điều kiện văn hóa‑lịch sử và thiếu một mô hình định hướng tổng quát cho cả vùng..
- Bảng 1: Lượng du khách quốc tế đến các tỉnh ĐBSCL giai đoạn 1996 – 2008 (đơn vị: lượt).
- Nguồn: Các sở Thương Mại – du lịch ở ĐBSCL từ 1996 ‑2008.
- Về hệ thống cơ sở vật chất kĩ thuật du lịch, ở ĐBSCL hơn một thập niên đầu tư phát triển, cơ sở hạng tầng liên quan đã được phát triển để phục vụ du lịch quốc tế, đáng chú ý là hệ thống nhà hàng, cơ sở khách.
- sạn đã phát triển với số lượng tăng nhanh tại các địa phương mà trước đây chưa từng có và bước đầu thu hút nguồn đầu tư lớn nhất phát triển từ nguồn vốn xã hội hóa..
- Sản phẩm phục vụ du khách quốc tế ngày càng được đầu tư phát triển đa dạng và có chất lượng cao hơn, đó là số lượng phát triển các ngành dịch vụ ăn theo có thu ngoại tệ như vận tải hành khách, đầu tư quốc tế và đã tạo ra được các sản phẩm du lịch mang đậm dấu ấn “chất ĐBSCL”.
- Ngoài ra, các địa phương đã dần hình thành và phát triển quản bá thương hiệu du lịch tại các hội chợ xúc tiến thương mại du lịch nội địa và quốc tế tại vùng ĐBSCL..
- Biểu 1 cho thấy ngành du lịch ở ĐBSCL phát triển liên tục với tốc độ cao (14.
- Nó chứng minh cho khả năng thu hút du khách quốc tế ở các tỉnh ĐBSCL, khả năng tham gia hội nhập du lịch ĐBSCL và trở thành ngành kinh tế mũi nhọn trong quá trình hội nhập kinh tế quốc tế..
- Tuy nhiên, đến đầu năm 2008, hoạt động dịch vụ du lịch ĐBSCL có những biến động.
- Mặc dù doanh số và lượng khách vẫn tiếp phát triển trên 15%, nhưng trong 6 tháng cuối năm lượt du khách quốc tế đến ĐBSCL tăng chỉ còn 10% so với cùng kì năm trước..
- Và đến 6 tháng đầu 2009, theo báo cáo sơ bộ của ngành du lịch, ĐBSCL tốc độ phát triển lượt du khách quốc tế giảm 10 ‑ 20 % so với cùng kì (đạt 487,349 lượt) và số ngày lưu trú của du khách quốc tế cũng giảm (từ 0,5 ‑ 0,7 ngày/lượt khách).
- Về biện pháp kích cầu du lịch tại vùng ĐBSCL, các địa phương đã ra các văn bản chỉ đạo các đơn vị, doanh nghiệp kinh doanh du lịch hưởng ứng phong trào kích cầu của Tổng cục Du lịch, nhưng chủ yếu là tự nguyện tham gia.
- doanh nghiệp kinh doanh du lịch tham gia.
- Tuy nhiên, hoạt động dịch vụ du lịch quốc tế tại ở ĐBSCL còn chứa nhiều mâu thuẫn cơ bản dẫn đến hạn chế trong khai thác các tiềm năng du lịch của vùng:.
- ‑ Các cơ sở hạ tầng kĩ thuật du lịch chưa đáp ứng yêu cầu cao của khách quốc tế, các cơ sở dịch vụ giải trí hiện đại chưa phát triển cao..
- Cụ thể là số cơ sở lưu trú, khách sạn đạt chuẩn sao vẫn còn ít so với nhu cầu và chưa có sản phẩm du lịch MICE.
- Chưa hút được các nguồn đầu tư và nguồn FDI lớn có quy mô vào cơ sở hạ tầng kĩ thuật du lịch..
- ‑ Nguồn nhân lực phục vụ du lịch thiếu hụt và chất lượng phục vụ theo yêu quốc tế còn thấp, đa phần chưa được đào tạo nghiệp vụ, chất lượng đào tạo cũng chưa tương xứng với yêu cầu phát triển du lịch quốc tế..
- Đến năm 2007, các tỉnh ĐBSCL hầu như chưa có sự hợp tác trong quy hoạch chiến lược phát triển du lịch quốc tế.
- Đây là hạn chế dẫn đến các cơ sở hạ tầng xây dựng có quy mô không hệ thống thiếu tính liên vùng và đã tạo ra mô hình, sản phẩm phục vụ du khách trùng lập, làm mất tính hấp dẫn với sắc thái riêng ứng với tiềm năng du lịch của mỗi tỉnh làm lãng phí tiềm năng và lãnh phí nguồn đầu tư….
- Nguồn đầu tư từ ngân sách địa phương cho ngành du lịch ở ĐBSCL vẫn còn thấp so với nguồn ngân sách đầu tư cho ngành kinh tế khác, và điều kiện cơ sở hạ tầng giao thông vận tải thường xuyên bị chia cắt theo mùa lũ, mùa tết..
- Tác động của dịch vụ du lịch quốc tế đến kinh tế ĐBSCL Tác động của dịch vụ du lịch quốc tế đến kinh tế.
- Hoạt động dịch vụ du lịch quốc tế ở ĐBSCL đã đạt được những kết quả lớn, góp phần làm chuyển dịch cơ cấu kinh tế và đã tác động cụ thể đến sự phát triển kinh tế của vùng như:.
- ‑ Doanh thu của ngành du lịch vùng ĐBSCL tăng đáng kể, góp phần phát triển ngành công nghiệp không khói.
- Cụ thể là số lượt du khách đến ĐBSCL trong thời gian qua tăng liên tục (xem bảng 1) làm tăng nguồn doanh thu từ ngành kinh doanh dịch vụ du lịch quốc tế và tăng ngân sách tại các địa phương..
- ‑ Thu nhập người tham gia lĩnh vực dịch vụ du lịch quốc tế được nâng cao, đây là một hệ quả tất yếu của sự phát triển du lịch..
- Đơn cử như mức sống của người dân trong vùng du lịch làng nghề truyền thống ở Bến Tre, Tiền Giang, An Giang và Kiên Giang cao hơn nơi khác trong vùng nhờ xuất khẩu tại chỗ các sản phẩm thủ công mỹ nghệ và dịch vụ giải trí khác….
- ‑ Tạo điều kiện cho cơ sở hạ tầng kinh tế kĩ thuật phát triển, đó là quy mô cơ sở hạ tầng du lịch phát triển phổ rộng trên cả vùng, cụ thể là các tỉnh đã hình thành được hệ thống phục vụ phát triển du lịch có những địa chỉ cụ thể và được du khách quốc tế tiếp cận và ấn tượng tốt về khả năng phục vụ của sản phẩm du lịch của ĐBSCL..
- ‑ Tác động đến các chính sách phát triển kinh tế của địa phương.
- một số địa phương đã bước đầu đưa chỉ tiêu phát triển dịch vụ du lịch quốc tế trở thành chỉ tiêu kinh tế mũi nhọn của tỉnh, như tỉnh Tiền Giang, Kiên Giang, An Giang….
- Theo báo cáo của các địa phương thì phát triển dịch vụ du lịch quốc tế đã làm thay đổi lớn nguồn thu của các tỉnh..
- Tác động của dịch vụ du lịch quốc tế đến đời sống xã hội.
- ‑ Góp phần nâng cao trình độ cho lực lượng lao động ngành du lịch, đó là hệ quả tất yếu của việc phát triển ngành du lịch ở ĐBSCL, tạo điều kiện nâng cao kĩ năng hướng dẫn du lịch, ngoại ngữ phục vụ các đoàn lữ hành, và đội ngũ quản trị ngành du lịch của vùng..
- ‑ Góp phần tạo điều kiện cho người dân trong vùng ý thức tổ chức gìn giữ an ninh quốc phòng, do các biện pháp ổn định an ninh tại các cở sở, nơi tổ chức các hoạt động phục vụ du lịch quốc tế được quan tâm phát triển mạnh….
- ‑ Góp phần thực hiện các chính sách an sinh xã hội, như chính sách giải quyết việc làm nông thôn ở ĐBSCL, tạo điều kiện phát triển văn hóa du lịch và quảng bá hình ảnh đẹp về quê hương Việt Nam ra bên ngoài vơi cộng đồng quốc tế..
- Ngoài ra, mặt trái hoạt động dịch vụ du lịch quốc tế ở ĐBSCL cũng tác động mạnh đến ô nhiễm môi trường tự nhiên do lạm dụng khi khai thác và thiếu chiến lược bảo dưỡng, và các dịch vụ “ăn theo” xuất hiện đã tác động đến đời sống văn hóa truyền thống dân tộc, làm cho một số giá trị đạo lí bị thay đổi theo hướng thị trường hóa, ảnh hưởng tiêu cực đến tâm lí giới trẻ gây ra chao đảo trong nhận thức dẫn đến nhiều tệ nạn xã hội..
- Tóm lại, những tác động trên cho thấy thành tựu và hạn chế cơ bản của hoạt động dịch vụ du lịch quốc tế cần được tiếp tục nghiên cứu và đưa ra những giải pháp đồng bộ để đưa ngành du lịch ĐBSCL đi vào quỹ đạo phát triển của du lịch Việt Nam..
- Triển vọng và thách thức của hoạt động dịch vụ du lịch quốc tế ở ĐBSCL.
- Với những tiềm năng được thiên nhiên ưu đãi mang màu sắc đặc thù ĐBSCL và sự chủ động hội nhập, du lịch ĐBSCL đang có nhiều cơ hội trở thành ngành kinh tế mũi nhọn, nhất là sau khi Việt Nam lọt vào nhóm 20 điểm đến yêu thích theo khảo sát mới đây của Tạp chí Conde Nast Traveller..
- Trong đó có những nơi tổ chức phục vụ du lịch mới phát triển và thu hút khách quốc tế đến khá cao như huyện đảo Phú Quốc của tỉnh Kiên Giang (Top đảo đẹp nhất của Thế giới), Rừng bảo tồn Tràm Chim Tam Nông (Đồng Tháp)….
- Cùng với quy mô cơ sở hạ tầng du lịch phát triển và đang được quy hoạch đầu tư thì ĐBSCL khi bước vào giai đoạn hội nhập khu vực và quốc tế sẽ tạo ra động lực mới để phát triển quy mô du lịch quốc tế và thúc đẩy kinh tế phát triển …và cuối cùng là tạo điều kiện cho người dân trong vùng tham gia phân công lao động quốc tế và giao lưu văn hóa..
- Như đã nói, du lịch sinh thái ở ĐBSCL là một thế mạnh không phải nơi nào cũng được thiên nhiên ban tặng, với hệ động thực vật đặc trưng của vùng nhiệt đới Đông Nam Á, ĐBSCL nằm ở hạ lưu sông Mê Kông nơi giao nhau giữa các cửa sông với biển Đông đã tạo ra môi sinh độc đáo với cảnh vật thiên nhiên và môi trường văn hóa ‑ dân tộc học đặc thù với giá trị nhân văn ĐBSCL..
- Tuy nhiên trong bối cảnh hội nhập sâu rộng quốc tế, du lịch sinh thái ĐBSCL sẽ đối mặt với những thách thức:.
- ‑ Tài nguyên du lịch sinh thái sẽ bị đe dọa nếu bị khai thác thiếu quy hoạch chiến lược dẫn đến điều kiện bảo tồn không được quan tâm..
- ‑ Sẽ bị mô hình du lịch của các nước trong khu vực Đông Nam Á cạnh tranh do cùng hệ sinh thái và điều kiện địa lí..
- ‑ Khả năng ô nhiễm môi sinh cao do khai thác thiếu kiểm dịch y tế, thiếu tính an toàn và đồng bộ do sự phát triển các cơ sở dịch vụ du lịch tại các địa phương có nhiều du khách đến đông cục bộ và đe dọa đến đời sống người dân..
- Một số giải pháp phát triển dịch vụ du lịch quốc tế ở ĐBSCL Phát triển bền vững và hội nhập là mục tiêu cần hướng tới của ngành du lịch của các tỉnh ĐBSCL, do đó vùng cần có những giải pháp chiến lược để tiếp tục duy trì tốc độ phát triển và nâng chất lượng phục vụ du lịch quốc tế.
- ‑ Giải pháp tạm thời, trong điều kiện ảnh hưởng khủng hoảng kinh tế thế giới, theo chúng tôi để cải thiện được doanh số dịch vụ du lịch quốc tế, các địa phương cần có chiến lược vận động các doanh nghiệp du lịch lữ hành và cơ sở lưu trú một cách đồng bộ, do các cơ quan chức năng thực hiện với các biện pháp cụ thể và tích cực hơn.
- Trong đó chính sách thuế, cơ chế thanh kiểm tra của sở chuyên ngành du lịch cần có thủ tục đơn giản và cần có những điều kiện ưu đãi khác để các doanh nghiệp mạnh dạn tham gia vào chương trình kích cầu du lịch..
- Đến năm 2008, toàn vùng ĐBSCL vẫn chưa có mô hình tổng thể để phát triển hoạt động du lịch.
- Do đó, các địa phương cần hợp tác, giao lưu gặp gỡ trong việc xây dựng các chương trình phát triển du lịch tổng thể để tránh những hạn chế về mô hình, sản phẩm và tạo ra điều kiện cho mỗi tỉnh phát triển các tiềm năng du lịch mang tính đặc thù.
- Trong đó, cần tiếp tục nâng cao vị trí và vai trò của hiệp hội du lịch ĐBSCL lên tầm mới (Hiệp hội du lịch ĐBSCL được thành lập năm 2008)..
- ‑ Đẩy mạnh xã hội hóa đầu tư cơ sở hạ tầng kĩ thuật du lịch: Các tỉnh ĐBSCL cần xây dựng chính sách khuyến khích đầu tư phát triển du lịch với cơ chế thông thoáng để thu hút các thành phần kinh tế quan tâm và đầu tư.
- Vì chất lượng cơ sở hạ tầng kĩ thuật du lịch có ảnh hưởng trực tiếp phát triển du lịch, mặc dù các năm qua, hệ thống cơ sở kĩ thuật du lịch được quan tâm đầu tư nhưng nguồn xã hội hóa hướng vào ngành du lịch chưa cao, chỉ được đầu tư dừng ở cơ sở khách sạn, nhà hàng, còn các dịch vụ khác liên quan đến sản phẩm đặc trưng của vùng vẫn chưa đầu tư trong việc bảo tồn di sản văn hóa, bảo tồn nguồn tài nguyên du lịch thiên nhiên.
- đặc thù, theo hướng hiện đại phù hợp với yêu cầu phát triển du lịch quốc tế trong bối cảnh hội nhập..
- ‑ Phát triển nguồn nhân lực ngành du lịch: Các tỉnh ĐBSCL cần đẩy nhanh đầu tư đào tạo nguồn nhân lực phục vụ du lịch quốc tế, liên kết đào tạo quốc tế và có chiến lược tiếp cận “Dự án phát triển nguồn nhân lực Việt Nam” được kí kết giữa Chính phủ và Cộng đồng Châu Âu (11/2001).
- ‑ tính chuyên nghiệp ngành, khả năng ngoại ngữ chuyên dụng và văn hóa ứng xử ngành du lịch..
- ‑ Phát triển sản phẩm du lịch quốc tế theo hướng đặc thù mang đậm “chất ĐBSCL”:.
- Các địa phương cần tiếp tục tổ chức quy hoạch phát triển các sản phẩm theo hướng đặc thù và bền vững, kết hợp với mô hình hiện đại theo yêu cầu phát triển hội nhập kinh tế vùng phía tây ĐBSCL.
- Đơn cử như sản phẩm du lịch thăm rừng sinh thái kết hợp giải trí ẩm thực, du lịch lễ hội văn hóa tôn giáo, và xây dựng sản phẩm du lịch kết hợp hội thảo khoa học, kinh tế (MICE)..
- ‑ Xúc tiến công tác tuyên truyền phát triển ngành du lịch và thương mại qua nhiều kênh:.
- Nâng cao thời lượng và chất lượng tuyên truyền qua kênh truyền thông quốc tế, xúc tiến thương mại du lịch tại chỗ, trong nước và nước ngoài là hoạt động cần được tổ chức thường xuyên để ĐBSCL có dịp quảng bá về sản phẩm du lịch, tạo điều kiện cho du khách quốc tế tiếp cận được hình ảnh ĐBSCL… Các địa phương cần quan tâm liên kết phát triển du lịch quốc tế tiểu vùng sông Mê Kông với các nước trong khu vực.