« Home « Kết quả tìm kiếm

Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam


Tóm tắt Xem thử

- 8 1.1.Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Khái niệm hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và các loại hợp đồng bảo hiểm khác.
- Lược sử, vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sảnError!.
- Lược sử của hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Vai trò và ý nghĩa của hợp đồng bảo hiểm tài sảnError! Bookmark not defined..
- Những vấn đề pháp lý chủ yếu của hợp đồng bảo hiểm tài sảnError!.
- Chủ thể của hợp đồng bảo hiểm tài sảnError! Bookmark not defined..
- Điều kiện có hiệu lực của hợp đồng bảo hiểm tài sảnError! Bookmark not defined..
- 1.3.3.Hình thức của hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Quyền và nghĩa vụ của các bên trong hợp đồng bảo hiểm tài sảnError!.
- Nghĩa vụ của bên mua bảo hiểm Error! Bookmark not defined..
- Pháp luật điều chỉnh quan hệ hợp đồng bảo hiểm tài sản ..Error!.
- Hệ thống văn bản pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Thực trạng một số qui định cụ thể về hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Về định nghĩa hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Về giao kết hợp đồng bảo hiểm tài sảnError! Bookmark not defined..
- Về chuyển nhượng hợp đồng bảo hiểm tài sảnError! Bookmark not defined..
- Về giải quyết bồi thường thiệt hại trong hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Về hợp đồng bảo hiểm trùng.
- Về giải quyết tranh chấp từ hợp đồng bảo hiểm tài sản ...Error!.
- Nhu cầu hoàn thiện pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam.
- Giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản.
- Phân biệt hợp đồng bảo hiểm tài sản và.
- các loại hợp đồng bảo hiểm khác...12.
- HĐBH : Hợp đồng bảo hiểm WTO : World Trade Organization PGS.TS : Phó giáo sư .
- Hoạt động kinh doanh bảo hiểm đã hình thành và phát triển tại cách đây hàng ngàn năm, và đã trở thành một cơ chế quan trọng trong việc hạn chế tác hại của rủi ro.
- Ngày nay hoạt động bảo hiểm không ngừng phát triển, trở thành ngành dịch vụ đóng vai trò quan trọng trong nền kinh tế quốc dân với nhiều loại hình bảo hiểm đa dạng, phong phú ăn sâu vào mọi lĩnh vực của đời sống xã hội và trở thành một nhu cầu không thể thiếu của hoạt động thương mại và đời sống thường nhật của con người.
- Rõ ràng sự phát triển của dịch vụ bảo hiểm có tác động tích cực đến sự phát triển của nền kinh tế.
- Dịch vụ bảo hiểm góp phần quan trọng vào việc khắc phục hậu quả của các rủi ro cho nền kinh tế và đời sống xã hội.
- Lợi ích này của dịch vụ bảo hiểm do phương thức hoạt động kinh doanh của doanh nghiệp bảo hiểm tạo ra.
- Quỹ bảo hiểm mà các doanh nghiệp bảo hiểm có được hình thành từ nguồn phí bảo hiểm do nhiều người tham gia bảo hiểm, nhưng chỉ chi trả cho các trường hợp thuộc diện được bảo hiểm theo nguyên tắc “số đông bù số ít”.
- Chính vì vậy, dịch vụ bảo hiểm tạo ra khả năng vật chất để khắc phục hậu quả của các rủi ro.
- Ngoài ra, dịch vụ bảo hiểm đóng vai trò là công cụ tập trung vốn cho nền kinh tế.
- Điều này thể hiện ở chỗ, do sự chênh lệch giữa thời gian thu phí và chi trả tiền bảo hiểm của doanh nghiệp bảo hiểm nên tạo ra sự tạm thời nhàn rỗi của vốn..
- Ở Việt Nam, hoạt động bảo hiểm ra đời muộn hơn so với các nước trên thế giới do thiếu vắng của sự phát triển thương mại suốt thời kỳ phong kiến.
- Sự ra đời của Bộ luật Dân sự 1995, và nhất là sự ra đời của Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000 là một dấu mốc quan trọng trong tiến trình tồn phát triển của bảo hiểm ở Việt Nam..
- Kinh doanh bảo hiểm làm phát sinh các quan hệ đặc biệt giữa doanh nghiệp bảo hiểm và người tham gia bảo hiểm.
- Hợp đồng bảo hiểm, ngoài những đặc tính của hợp đồng nói chung, còn có một số đặc trưng riêng do mang những đặc tính của dịch vụ tài chính, có nghĩa là liên quan tới quá trình hình thành, phân phối và sử dụng quĩ bảo hiểm thương mại.
- Hợp đồng bảo hiểm thường được nhìn dưới nhiều giác độ khác nhau, do đó ở Việt Nam hiện nay được điều chỉnh bởi nhiều đạo luật khác nhau như: Bộ luật Dân sự, Luật Kinh doanh bảo hiểm, Bộ luật Hàng hải và Luật Hàng không dân dụng.
- Vấn đề hoàn thiện pháp luật hợp đồng bảo hiểm sao cho phù hợp với sự phát triển của xã hội, của kinh tế, bảo vệ được quyền lợi của các bên tham gia đang là một vấn đề cấp thiết.
- Trong đó hợp đồng bảo hiểm tài sản là một vấn đề pháp lý chủ chốt.
- Vì vậy các lẽ nêu trên, tôi xin chọn đề tài “Pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản ở Việt Nam” làm đề tài luận văn thạc sĩ của mình..
- Hệ thống các vấn đề lý luận về hợp đồng bảo hiểm tài sản làm cơ sở cho việc nghiên cứu các qui định pháp luật hiện hành của Việt Nam;.
- Phân tích thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản;.
- Kiến nghị các định hướng và giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản..
- Luận văn không nghiên cứu các vấn đề về kinh tế bảo hiểm và các nghiệp vụ bảo hiểm, mà chỉ tập trung vào nghiên cứu phương diện pháp lý của hợp đồng bảo.
- Luận văn cũng không nghiên cứu các kỹ năng liên quan của hợp đồng bảo hiểm tài sản..
- Chương 1: Khái luận pháp luật về hợp đồng bảo hiểm tài sản..
- Chương 2: Thực trạng pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản..
- Chương 3: Kiến nghị giải pháp hoàn thiện pháp luật Việt Nam về hợp đồng bảo hiểm tài sản..
- 1.1.Khái niệm và đặc điểm của hợp đồng bảo hiểm tài sản 1.1.1.
- Khoản 1, Điều 12, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 định nghĩa: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”.
- Điều 567, Bộ luật Dân sự năm 2005 có định nghĩa tương tự nhưng với một số thuật ngữ khác biệt như sau: “Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận giữa các bên, theo đó bên mua bảo hiểm phải đóng phí bảo hiểm, còn bên bảo hiểm phải trả một khoản tiền bảo hiểm cho bên được bảo hiểm khi xảy ra sự kiện bảo hiểm”..
- Bảo hiểm gắn liền với các rủi ro mà khi xảy ra có thể gây thiệt hại về vật chất và tinh thần cho con người.
- Bởi chỉ có thể bù đắp các thiệt hại về vật chất, nên chỉ có thể bảo hiểm các rủi ro tài chính, có nghĩa là các rủi ro mang tới thiệt hại về tài chính cho người phải gánh chịu.
- Qua các định nghĩa trên có thể thấy bảo hiểm là một cơ chế mà theo đó người nhận bảo hiểm (hay doanh nghiệp bảo hiểm) thay vì nhận một khoản tiền (được gọi là phí bảo hiểm) từ người mua bảo hiểm, phải bồi thường bảo hiểm khi có sự kiện bảo hiểm xãy ra (có nghĩa là có rủi ro xảy ra gây thiệt hại về tài chính cho người được bảo hiểm hay người thụ hưởng bảo hiểm).
- Vậy hợp đồng bảo hiểm được xem là hình thức pháp lý của cơ chế bảo hiểm đó.
- Vì nhằm tìm kiểm một cam kết hỗ trợ về tài chính từ phía doanh nghiệp bảo hiểm để nhằm bù đắp những thiệt hại của mình, bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm giao kết hợp đồng bảo hiểm.
- Hợp đồng bảo hiểm là sự thỏa thuận chuyển giao rủi ro giữa bên mua bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm, theo đó bên mua bảo hiểm đóng phí bảo hiểm (có thể được coi như giá của rủi ro) để đổi lấy một cam kết bảo đảm về tài chính với điều kiện.
- gắn vào trường hợp bên mua bảo hiểm phải gánh chịu những tổn thất về tài chính do rủi ro (sự kiện bảo hiểm) [5, tr.
- Sự kiện bảo hiểm là những điều kiện, hoàn cảnh, tình huống trong đời sống thực tế được các bên dự liệu và ghi vào hợp đồng bảo hiểm hoặc do pháp luật qui định liên quan trực tiếp đến đối tượng bảo hiểm.
- Sự kiện bảo hiểm có thể phân chia làm hai loại: Thứ nhất, sự kiện bảo hiểm là rủi ro.
- Với đặc tính bất lợi và bất ngờ, rủi ro trực tiếp xâm hại đến sự tồn tại của đối tượng bảo hiểm hoặc làm phát sinh nghĩa vụ pháp lý của người được bảo hiểm.
- Khi rủi ro mà các bên đã dự liệu trong hợp đồng hoặc pháp luật qui định xảy ra trên thực tế thì làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường của doanh nghệp bảo hiểm.
- Thứ hai, sự kiện bảo hiểm là những sự kiện, hoàn cảnh, tình huống không mang tính bất lợi, bất ngờ nhưng do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật qui định nếu xảy ra trên thực tế thì làm phát sinh nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm hoặc bồi thường của doanh nghiệp bảo hiểm [4, tr.
- Trong thực tế hiện nay, tranh chấp hợp đồng bảo hiểm chủ yếu hiện nay là các bên không xác định được chính xác sự kiện bảo hiểm như thế nào..
- Do đó việc bảo vệ quyền lợi của các bên trong hợp đồng bảo hiểm chưa được đáp ứng một cách thỏa đáng..
- Từ những phân tích trên ta có thể khái quát đặc trưng cơ bản của hợp đồng bảo hiểm như sau:.
- Thứ hai, việc thực hiện hợp đồng bảo hiểm chính là giải quyết hậu quả của rủi ro;.
- Thứ ba, hợp đồng bảo hiểm không xác định được trước hậu quả khi giao kết;.
- Thứ tư, việc xác định trách nhiệm của doanh nghiệp bảo hiểm phụ thuộc vào việc có xuất hiện hay không các sự kiện ngẫu nhiên mang tính may rủi [5, tr.
- Mục đích của bảo hiểm là bù đắp tài chính để khắc phục thiệt hại, nhằm khôi phục lại tình trạng tài chính của bên mua bảo hiểm như ban đầu khi chưa bị tổn thất.
- Về nguyên tắc, sự đền bù này chỉ có thể bằng mà không thể tốt hơn trạng thái ban đầu của đối tượng bảo hiểm khi chưa bị tổn thất.
- Bên mua bảo hiểm không thể được hưởng lợi thông qua giao kết hợp đồng bảo hiểm..
- Hợp đồng bảo hiểm thường được phân loại theo nghiệp vụ bảo hiểm.
- Các nghiệp vụ này được phân chia thành hai loại chính là bảo hiểm nhân thọ và bảo hiểm phi nhân thọ.
- Trong bảo hiểm phi nhân thọ có bảo hiểm tài sản..
- Hợp đồng bảo hiểm tài sản, về bản chất cũng được hiểu như hợp đồng bảo hiểm nói chung, nhưng đối tượng của hợp đồng bảo hiểm là tài sản.
- Như vậy đối tượng của hợp đống bảo hiểm tài sản bị thu hẹp hơn so với hợp đồng bảo hiểm nói chung.
- Điều 40, Luật Kinh doanh bảo hiểm năm 2000 qui định: “Đối tượng của hợp đồng bảo hiểm tài sản là tài sản, bao gồm vật có thực, tiền, giấy tờ trị giá được bằng tiền và các quyền tài sản”.
- Căn cứ vào đối tượng của hợp đồng ta có thể phân biệt được hợp đồng bảo hiểm tài sản với các hợp đồng bảo hiểm khác vì đối tượng hợp đồng là căn cứ cơ bản để phân loại hợp đồng và để xác định được bản chất, đặc trưng, nguyên tắc cơ bản của từng loại hợp đồng bảo hiểm.
- Hợp đồng bảo hiểm con người có đối tượng là tuổi thọ, tính mạng, sức khỏe và tai nạn không thể định giá bằng tiền hoặc thay thế được.
- Ngoài con người còn có các mối quan hệ nhân thân phi tài sản, do đó pháp luật không qui định chặt chẽ đối với bên mua bảo hiểm.
- Hợp đồng bảo hiểm trách nhiệm dân sự có đối tượng bảo hiểm là trách nhiệm dân sự của người được bảo hiểm đối với người thứ ba.
- Trong khi đó, Hợp đồng bảo hiểm tài sản với đối tượng chính là tài sản lại được điều chỉnh sâu về phương diện đề phòng trục lợi bảo hiểm nhằm đảm bảo ổn định trật tự và đạo đức xã hội.
- các nguy cơ trục lợi bảo hiểm thông thường như bảo hiểm dưới giá trị, bảo hiểm trên giá trị và bảo hiểm trùng, đồng thời gắn kết trách nhiệm của chủ tài sản không được từ bỏ tài sản được bảo hiểm, có nghĩa vụ cung cấp thông tin về thay đổi mức độ rủi ro được bảo hiểm và thay đổi những biện pháp an toàn đối với tài sản được bảo hiểm.
- Bên cạnh đó doanh nghiệp bảo hiểm có quyền kiểm tra các điều kiện đảm bảo an toàn cho đối tượng bảo hiểm hoặc khuyến nghị, yêu cầu người được bảo hiểm áp dụng các biện pháp phòng trừ, hạn chế các tổn thất, có quyền yêu cầu chuyển quyền yêu cầu bồi hoàn..
- Các định nghĩa nêu trên cho thấy đặc trưng cơ bản của Hợp đồng bảo hiểm, đó là việc ghi nhận sự thỏa thuận và thực hiện cam kết của các bên gắn với việc xảy ra một “sự kiện bảo hiểm”.
- Theo qui định của pháp luật Việt Nam, “sự kiện bảo hiểm” được định nghĩa là “sự kiện khách quan do các bên thỏa thuận hoặc pháp luật qui định mà khi sự kiện đó xảy ra thì doanh nghiệp bảo hiểm phải trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường cho người được bảo hiểm” (Điều 3, khoản10, Luật Kinh doanh bảo hiểm 2000)..
- David Bland, Bảo hiểm: Nguyên tắc và Thực hành, Nxb.
- Giáo trình bảo hiểm trong kinh doanh, Nxb.
- Luật Kinh doanh bảo hiểm 2001..
- Nghị định 45/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 qui định chi tiết một số điều của Luật Kinh doanh bảo hiểm..
- Nghị định 46/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 qui định chế độ tài chính đối với doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp môi giới bảo hiểm..
- Qui chế tạm thời về các qui định chung của hợp đồng bảo hiểm ban hành kèm theo Quyết định 581/TC/TCNH ngày 01/07/1996..
- Quyết định 581a TC/TCNH ngày 01/07/1996 của Bộ Tài chính về quy chế tạm thời về Hợp đồng bảo hiểm..
- Thông tư 27/1998/TT-BTC ngày 04/03/1998 của Bộ Tài chính hướng dẫn hoạt động khai thác bảo hiểm và quản lí phí bảo hiểm..
- Thông tư 155/2007/TT-BTC ngày 20/12/2007 hướng dẫn thi hành nghị định số 45/2007/NĐ-CP ngày 27/03/2007 của Chính Phủ qui định chi tiết thi hành một số điều của Luật kinh doanh bảo hiểm.