« Home « Kết quả tìm kiếm

PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM


Tóm tắt Xem thử

- PHÁT TRIỂN CÁC VÙNG KINH TẾ TRỌNG ĐIỂM Ở VIỆT NAM.
- Trần Anh Phương Ban Kinh tế ‑ Xã hội, Báo điện tử ĐCS Việt Nam.
- Việc hình thành các vùng kinh tế trọng điểm (KTTĐ) ở nước ta qua thực tiễn phát triển hơn thập niên qua đã khẳng định tính đúng đắn của sự cần thiết, từng bước đáp ứng được nhu cầu của phát triển nội vùng nói riêng và yêu cầu phát triển chung của cả nền kinh tế Việt Nam trong tiến trình hội nhập khu vực và toàn cầu..
- Tuy nhiên, do nhiều nguyên nhân khác nhau nên trong tiến trình hình thành, phát triển các vùng KTTĐ đó đã gặp phải các khó khăn, thách thức nảy sinh và vì thế cũng đã tồn đọng những hạn chế, bất cập của chính sự phát triển các vùng KTTĐ đó..
- Yêu cầu quan trọng đặt ra, đã đến lúc cần có sự nghiên cứu, đánh giá về thực trạng và những vấn đề nảy sinh trong tiến trình phát triển các vùng KTTĐ, làm cơ sở khoa học ‑ thực tiễn cho việc đề xuất các giải phát phát triển bền vững hơn các vùng KTTĐ đó..
- Phát triển các vùng KTTĐ là xu thế khách quan trong tiến trình chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
- Việc phát triển các vùng KTTĐ đối với nhiều quốc gia, lãnh thổ trên thế giới cho đến nay không còn là vấn đề mới lạ mà trên thực tế đó đã trở thành một xu thế mang tính quy luật khách quan trong tiến trình đẩy mạnh chuyển dịch cơ cấu kinh tế theo hướng CNH, HĐH.
- Điều này đặc biệt cần thiết đối với những quốc gia, lãnh thổ còn có nền kinh tế chưa phát triển hoặc kể cả đã là nền kinh tế đang phát triển nhưng giá trị sản phẩm nông nghiệp còn chiếm tỷ lệ khá cao (trên 20%) trong tổng GDP như Việt Nam hiện nay..
- Đồng thời trên cơ sở đó, các loại cơ cấu vùng, cơ cấu lao động và cơ cấu thành phần cũng biến đổi phù hợp tương ứng theo của chuyển dịch cơ cấu ngành kinh tế..
- Cần thấy rằng, đồng thời với sự chuyển dịch đó, như là một tác động tương hỗ của quan hệ nhân quả, cơ cấu kinh tế vùng của Việt Nam cũng sẽ phải và cần phải chuyển dịch theo hướng phát huy lợi thế so sánh của từng vùng, trong đó nổi bật vai trò hạt nhân phát triển trước hết là ở 3 vùng KTTĐ đã có quá trình hình thành, phát triển từ những năm 1997‑1998 đến nay là Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ và gần đây từ tháng 4/2009 thêm mới là vùng Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL) mà dưới đây ta sẽ xem xét kỹ hơn..
- Tiến trình hình thành các vùng KTTĐ 2.1.
- Các vùng KTTĐ Bắc‑Trung‑Nam.
- Nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết và phối hợp trong phát triển kinh tế ‑ xã hội giữa các vùng lãnh thổ khác nhau của nước ta, kể từ cuối năm 1997 và đầu năm 1998, Thủ tướng Chính phủ đã lần lượt phê duyệt Quyết định số 747/1997/QĐ‑TTg, 1018/1997/QĐ‑TTg và Quyết định số 44/1998/QĐ‑TTg về Quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội 3 vùng KTTĐ quốc gia đến năm 2010, bao gồm 3 vùng KTTĐ ở Bắc Bộ, Trung Bộ và Nam Bộ..
- Trong 3 vùng KTTĐ này, có 13 tỉnh/thành phố được xếp vào quy hoạch tổng thể phát triển kinh tế ‑ xã hội các vùng KTTĐ..
- Bảng 1: Số tỉnh, thành phố được xếp vào vùng KTTĐ theo các quyết định của Thủ tướng Chính phủ năm 1997 và năm 1998.
- Trong Hội nghị các tỉnh thuộc vùng KTTĐ Nam Bộ ngày 20‑21/6/2003, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định mở rộng ranh giới của vùng.
- Tổng diện tích vùng KTTĐ sau khi bổ sung là 23.994,2 km 2 , bằng 7,3% diện tích cả nước.
- Trong Hội nghị các tỉnh thuộc vùng KTTĐ Bắc Bộ ngày 14‑15/7/2003, Thủ tướng Chính phủ đã quyết định mở rộng ranh giới của vùng.
- I- Vùng KTTĐ Bắc Bộ.
- II- Vùng KTTĐ Trung Bộ.
- III- Vùng KTTĐ Nam Bộ.
- Do yêu cầu thực tiễn cũng như sự hiểu biết ngày càng nâng cao nhận thức hơn về vị trí, vai trò và tầm quan trọng của các vùng KTTĐ trong quá trình phát triển kinh tế ‑ xã hội của đất nước.
- để đảm bảo cho sự vận hành về phát triển kinh tế của từng vùng cũng như giữa các vùng một cách hiệu quả, ngày 18 tháng 02 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành Quyết định số 20/2004/QĐ‑TTg về việc thành lập Tổ chức điều phối phát triển các vùng KTTĐ ở cấp Trung ương..
- Cơ cấu bộ máy của Tổ chức điều phối phát triển các vùng KTTĐ bao gồm: Ban Chỉ đạo điều phối phát triển các vùng KTTĐ (gọi tắt là Ban Chỉ đạo) và các Tổ điều phối của các Bộ, ngành và địa phương trong vùng KTTĐ..
- Tiếp đó, ngày 13 tháng 8 năm 2004, Thủ tướng Chính phủ đã ban hành các Quyết định số 145, 146, 148/2004/QĐ‑TTg về phương hướng chủ yếu phát triển kinh tế ‑xã hội vùng KTTĐ đến năm 2010 và tầm nhìn năm 2020.
- Trong các quyết định này, quy mô của các vùng KTTĐ đã được mở rộng thêm 7 tỉnh gồm Hà Tây, Vĩnh Phúc, Bắc Ninh (Bắc Bộ);.
- Bảng 2: Số tỉnh, thành phố được xếp vào các vùng KTTĐ Bắc-Trung-Nam cho đến nay.
- Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL.
- Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL được thành lập theo Quyết định 492 ngày 16/4/2009 của Thủ tướng Chính phủ.
- Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL cùng với 3 vùng KTTĐ Bắc Bộ, Trung Bộ, Nam Bộ sẽ đóng vai trò động lực cho phát triển kinh tế ‑ xã hội của cả nước..
- Vùng kinh tế trọng điểm ĐBSCL nằm ở phía Tây Nam của tổ quốc bao gồm: Tp Cần Thơ, tỉnh Cà Mau, Kiên Giang và An Giang với tổng diện tích hơn 16.600 km 2 , dân số khoảng 6,4 triệu người..
- 6 tháng đầu năm 2009 các tỉnh đã vượt qua được khủng hoảng và phát triển ổn định..
- Vùng KTTĐ này tuy mới thành lập nhưng nhiều năm qua các địa phương đã biết khai thác những lợi thế khác nhau để tạo được bước phát triển khá cao.
- Ngoài nông nghiệp trồng lúa và nuôi trồng thủy sản, các tỉnh trong vùng đang tích cực chuyển đổi cơ cấu kinh tế tăng dần tỷ trọng ngành dịch vụ..
- Thực trạng phát triển và vấn đề đặt ra ở các vùng KTTĐ.
- Sự hình thành, phát triển của cả 4 vùng KTTĐ trên đây nếu không kể đến vùng ĐBSCL mới được thành lập hơn 6 tháng nay đang trong giai đoạn khởi động, còn lại cả 3 vùng Bắc‑Trung‑Nam từ hơn 10 năm qua đều đã và đang từng bước được triển khai theo hướng sẽ xây dựng thành những trung tâm lớn về công nghiệp, có công nghệ cao, trung tâm tài chính, ngân hàng, viễn thông, trung tâm đào tạo và y tế chất lượng cao, trung tâm dịch vụ vận tải và giao thông quốc tế.
- Nhằm tạo ra động lực thúc đẩy sự phát triển chung của cả nước cũng như tạo mối liên kết và phối hợp trong phát triển kinh tế ‑ xã hội giữa các vùng lãnh thổ khác nhau của nước ta, các vùng KTTĐ đó sẽ tác động hỗ trợ đến sự phát triển của các vùng khó khăn, nhất là các vùng sâu, vùng xa, biên giới, hải đảo, vùng đồng bào dân tộc thiểu số được trợ giúp nhiều hơn về nguồn lực để phát triển.
- Nằm trong quy hoạch chung về sự phát triển các vùng KTTĐ đó, các tiểu vùng lãnh thổ thuộc mọi địa bàn khác nhau của 3 miền Bắc, Trung, và Nam Bộ từ miền núi phía bắc, đồng bằng Sông Hồng đến duyên hải miền Trung, trung du và miền núi Tây Nguyên, cho đến vùng ĐBSCL những năm qua đều đã xây dựng và đang tích cực triển khai chiến lược và kế hoạch riêng về phát triển kinh tế ‑ xã hội trên.
- Thực tiễn cho thấy, sự phát triển kinh tế ‑ xã hội của đất nước trong những năm vừa qua có được sự tăng trưởng cao và khá ổn định là do nhiều nguyên nhân bắt nguồn từ đường lối đổi mới, hội nhập đúng đắn của Đảng và Nhà nước.
- Song cần thấy, sự tăng trưởng đó có một nguyên nhân quan trọng là do sự tác động qua lại không chỉ từ phát triển nội tại từng vùng KTTĐ, mối quan hệ xâm nhập, liên kết lẫn nhau giữa các vùng mà còn do những tác nhân cơ sở hạ tầng thiết yếu khác được hình thành, phát triển từ chính yêu cầu hình thành, phát triển của từng vùng hoặc giữa các vùng như: hệ thống giao thông bao gồm: đường bộ, đường thuỷ, sân bay, các bến, cảng… trong các vùng KTTĐ và các tỉnh/thành phố trong cả nước nhằm mục tiêu tác động cùng phát triển..
- Trong quá trình hình thành và phát triển, rõ ràng là các vùng KTTĐ đang phát huy lợi thế, tạo nên thế mạnh của mình theo cơ cấu kinh tế mở, gắn với nhu cầu thị trường trong và ngoài nước, không chỉ tạo ra động lực thúc đẩy sự chuyển dịch nhanh cơ cấu nền kinh tế quốc dân theo chiều hướng tích cực mà còn góp phần ổn định nền kinh tế vĩ mô, đặc biệt là hỗ trợ và thúc đẩy sự phát triển kinh tế ‑ xã hội của các tỉnh lân cận trong vùng.
- Trong đó, định hướng đã thành nguyên tắc chỉ đạo chung của Chính phủ là thống nhất quy hoạch phát triển trong cả nước, giữa các vùng, tỉnh, thành phố, tạo sự liên kết trực tiếp về sản xuất, thương mại, đầu tư, giúp đỡ kỹ thuật về nguồn nhân lực, nâng cao trình độ dân trí và đào tạo nguồn nhân lực đáp ứng yêu cầu phát triển kinh tế ‑ xã hội của vùng và khu vực, gắn chặt phát triển kinh tế ‑ xã hội với bảo vệ, cải thiện môi trường và quốc phòng an ninh..
- Sau đây là phác họa về sự phát triển và những vấn đề đặt ra của các vùng KTTĐ đó:.
- Vùng KTTĐ Bắc Bộ.
- Với tỷ trọng đóng góp 21% GDP cả nước (năm 2005) và hướng phấn đấu sẽ đóng góp 23‑24% GDP cả nước vào năm 2010, vùng này đang hứa hẹn một tiềm năng lớn song cũng còn không ít khó khăn, bất cập trong thực tiễn phát triển..
- Theo số liệu thống kê, tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của vùng năm 2007 đạt 13,2%, trong đó khu vực nông lâm nghiệp và thuỷ sản tăng 2,5%.
- Cơ cấu kinh tế có sự dịch chuyển đáng kể.
- Trong 2 năm 2006‑2007 tổng vốn đầu tư xã hội để phát triển của vùng đạt khoảng 237 nghìn tỷ đồng, gần bằng tổng vốn đầu tư trong giai đoạn 5 năm 2001‑2005 (257 nghìn tỷ đồng), tốc độ tăng vốn đầu tư bình quân đạt 25,4%/năm..
- Một là, việc phát triển đô thị và khu công nghiệp trong vùng còn những điểm chưa hợp lý.
- Hệ thống đô thị của vùng phát triển khá nhanh nhưng chưa có quy hoạch chung với tầm nhìn dài hạn.
- Từ đó cho thấy, nên cân nhắc phương án sử dụng vùng đất bạc màu thuộc khu vực trung du cho các mục đích phát triển công nghiệp và đô thị..
- Việc phát triển đường cao tốc và tuyến đường ven biển cần phải có kế hoạch triển khai nhanh hơn..
- ‑ Việc phát triển các các khu công nghiệp phải kiên quyết theo hướng chuyển bớt các đô thị mới và các khu công nghiệp mới lên phía trục đường QL21 và QL18.
- ‑ Chúng ta đang rất thiếu thông tin, nhất là thông tin kinh tế phục vụ hoạch định đường lối, chính sách phát triển đối với vùng KTTĐ Bắc Bộ.
- Vùng KTTĐ Trung Bộ.
- Đồng thời, vùng Duyên hải Nam Trung Bộ sẽ được quy hoạch theo hướng là vùng kinh tế tổng hợp, là cửa ngõ hướng biển của các tỉnh vùng Tây Nguyên và các tỉnh Nam Lào, Đông Bắc Campuchia, Thái Lan..
- Theo đó, vùng KTTĐ Trung Bộ gồm Tp Đà Nẵng, các tỉnh: Thừa Thiên Huế, Quảng Nam, Quảng Ngãi, Bình Định sẽ là vùng động lực thúc đẩy phát triển kinh tế ‑ xã hội cho miền Trung và Tây Nguyên, với ngành kinh tế chủ đạo là kinh tế biển gắn với công nghiệp và dịch vụ..
- Hệ thống chuỗi đô thị sẽ được xây dựng để tạo động lực thúc đẩy phát triển kinh tế vùng, thu hút nguồn vốn, cơ hội đầu tư trong nước và quốc tế.
- còn Tp Quy Nhơn sẽ là trung tâm tăng trưởng kinh tế phía Nam của vùng, là đầu mối giao thông đường bộ và cảng biển phục vụ trực tiếp cho vùng Tây Nguyên..
- Các cặp cửa khẩu qua các nước Myanmar, Thái Lan và Lào cũng sẽ được nối thông với hệ thống cảng biển ‑ khu kinh tế của Việt Nam trên.
- Tiềm năng và định hướng phát triển là bức tranh sáng lạn như vậy, song bên cạnh những kết quả phát triển đã đạt được, tại vùng này đến nay vẫn còn không ít khó khăn, bất cập.
- ‑ Hiện tại, vùng KTTĐ Trung Bộ có hệ thống giao thông được kết nối còn quá khó khăn.
- ‑ Sự gắn kết giữa kinh tế địa phương và kinh tế vùng đã và đang nổi lên nhiều vấn đề rất bất cập.
- Thực tế hiện nay, kinh tế các tỉnh đang thực sự chi phối phát triển kinh tế vùng.
- Do đó, kinh tế vùng trên thực tế mang tính thống kê nhiều hơn là sự kết nối, bổ sung cho nhau, tận dụng các thế mạnh của nhau nhằm phân bổ và sử dụng hợp lý, hiệu quả và tiết kiệm các nguồn lực có được trong vùng.
- Từ trước đến nay đã có rất nhiều hội nghị, hội thảo, diễn đàn kinh tế bàn về vấn đề liên kết ở các tỉnh trong vùng KTTĐ.
- Thậm chí, Chính phủ cũng đã ban hành nhiều quyết định quan trọng và thành lập các Ban chỉ đạo điều phối phát triển vùng KTTĐ.
- Tuy nhiên, cho đến nay, việc liên kết trong phát triển kinh tế giữa các địa phương trong vùng KTTĐ vẫn chưa có tiến triển, các địa phương gần như tự làm quy hoạch rồi trình Chính phủ phê duyệt.
- Phải tái quy hoạch tổng thể, quyết định các cơ chế chính sách rõ ràng để các vùng KTTĐ thật sự là sự kết nối lan tỏa, thúc đẩy và lôi kéo các vùng lân cận cùng phát triển..
- Trong những năm qua, nhờ chủ trương phát triển vùng động lực, các khu kinh tế, khu công nghiệp được phát triển, tốc độ tăng trưởng kinh tế, cơ cấu công nghiệp cho nền kinh tế đất nước không ngừng được tăng cao.
- Xin ví dụ về khu kinh tế Dung Quất: Nhờ chủ trương và chỉ đạo sát sao của Chính phủ, tại khu kinh tế này đã hình thành nhà máy lọc dầu cho ra sản phẩm và kéo theo đó nhiều đề án đầu tư.
- Nhân dân trong khu kinh tế đã nhường hàng ngàn ha đất, nay cần thiết phải tái đầu tư để cho các khu kinh tế có điều kiện đầu tư phát triển.
- Những vùng khó khăn, cần có cơ chế tài chính đặc thù để trong những năm đầu, ngân sách Nhà nước cân đối không thấp hơn nguồn thu ngân sách trên địa bàn, theo yêu cầu đầu tư phát triển hạ tầng các công trình công cộng.
- Nội dung này đã được thể hiện trong Quyết định 50 năm 2005 của Thủ tướng từ khi thành lập khu kinh tế Dung Quất nhưng đến nay chưa được thực hiện..
- Không chỉ ở khu kinh tế Dung Quất mà đã có một thực trạng là sau hơn 10 năm hình thành và phát triển mô hình các khu kinh tế, đến nay, ở khu vực miền Trung, tỉnh nào cũng có khu kinh tế.
- Tuy nhiên, hiệu quả kinh tế ‑ xã hội mang lại từ các khu kinh tế hiện vẫn còn hạn chế..
- Lý giải điều này, nhiều chuyên gia kinh tế cho rằng, lâu nay chúng ta chưa có chiến lược phát triển kinh tế miền Trung một cách bền vững..
- Các khu kinh tế chưa quan tâm lựa chọn dự án trọng điểm và đề ra những giải pháp hợp lý để thu hút đầu tư.
- Vì thế khi gặp khủng hoảng từ năm 2008 đến nay, các khu kinh tế đã là nơi chịu tác động nhiều nhất vì là nơi tập trung lực lượng lao động nhiều và là trọng tâm tăng trưởng của nền kinh tế..
- Vùng KTTĐ Nam Bộ.
- Với tỷ lệ đóng góp chiếm khoảng 40% GDP của cả nước, vùng KTTĐ Nam Bộ đang tiếp tục là vùng động lực phát triển kinh tế của cả nước..
- Tốc độ tăng trưởng kinh tế bình quân của vùng năm 2007 đạt 12,6%, chiếm tỷ trọng 60% giá trị sản xuất công nghiệp, 70% kim ngạch xuất khẩu.
- Cơ cấu kinh tế của vùng là khu vực nông, lâm, thuỷ sản 7,3%, khu vực công nghiệp và xây dựng 56,3% và khu vực dịch vụ 36,4%.
- Vùng KTTĐ Nam Bộ là vùng có khả năng xuất khẩu cao và cũng là vùng có khả năng xuất siêu duy nhất của cả nước.
- Vấn đề lớn nhất đặt ra hiện nay cho vùng KTTĐ Nam Bộ là cần duy trì mức tăng trưởng mà vẫn đảm bảo phát triển hài hoà các yếu tố về môi trường và xã hội.
- Hiện nay đã xuất hiện một số vấn đề nghiêm trọng mang tính hệ quả của quá trình phát triển thiếu liên kết, bằng mọi giá phải thu hút đầu tư và tăng trưởng trong đó nổi bật là các vấn đề ô nhiễm môi trường, liên kết hạ tầng giao thông, cấp nước và xử lý chất thải, vấn đề về thiếu lao động chất lượng cao trong các ngành sản xuất, cân bằng năng lượng phục vụ sản xuất và đời sống trên toàn vùng..
- song hành với sự phát triển công nghiệp của một số tỉnh, Tp Hồ Chí Minh, Đồng Nai, Bình Dương.
- Trong khi mạng lưới giao thông là yếu tố tối quan trọng để vận hành và truyền tải rất nhiều hoạt động kinh tế liên quan.
- Hiện nay bức tranh tổng thể kinh tế toàn vùng đã tương đối rõ nét, việc dự báo các luồng hàng, luồng khách trên các tuyến giao thông là hoàn toàn có cơ sở.
- Giao thông liên vùng cần đi trước một bước trong vai trò khích lệ các khu kinh tế, khu công nghiệp, khu đô thị phát triển và cân đối hài hoà các nguồn lực trên toàn vùng.
- Như chúng ta thấy, các tuyến quốc lộ hiện nay mặt cắt trên toàn tuyến rất khác nhau và đi qua nhiều đô thị lớn, dẫn đến tình trạng ách tắc ở một số khu vực làm cho thời gian vận chuyển hàng hoá giữa các khu vực tăng lên, thiệt hại về mặt kinh tế là không nhỏ.
- Hạ tầng kỹ thuật đô thị là vấn đề nóng hiện nay của vùng KTTĐ Nam Bộ.
- Đến năm 2020, theo dự báo nhu cầu tiêu thụ nước sạch ngày càng lớn trong khi diện tích các vùng nước mặt đạt tiêu chuẩn xử lý ngày càng bị thu hẹp, cần có phương án bảo vệ nghiêm ngặt các nguồn nước mặt vì đây là tài nguyên không thể thay thế và có ảnh hưởng lớn đến sự phát triển lâu dài của hệ thống các đô thị, khu dân cư, khu công nghiệp trên toàn vùng.
- Đối với vấn đề thoát nước thải thì việc lựa chọn công nghệ thích hợp với từng giai đoạn phát triển cần được đặt lên hàng đầu.
- Vấn đề về phát triển năng lượng, trong đó trọng tâm là phát triển điện năng đặt ra cho vùng nhiều thách thức trong giai đoạn tới.
- Với mức độ phát triển công nghiệp của vùng thì cần phải tiêu thụ một lượng rất lớn điện năng để phục vụ cho các hoạt động sản xuất.
- Hầu hết các vấn đề đặt ra trên đây của vùng KTTĐ Nam Bộ và kể cả các vùng KTTĐ khác như đã nêu trên đều đang cho thấy cần thiết có sự trả lời về một câu hỏi: Cái giá phải trả cho sự phát triển vùng KTTĐ bằng mọi giá là gì.
- Chính vì thế, thông qua tham luận này tuy chưa thể phản ánh đầy đủ và có thể còn khiếm khuyết, song tác giả rất mong được bày tỏ quan điểm và chia sẻ với các nhà khoa học là cần có sự điều tra, nghiên cứu khách quan, cụ thể hơn nữa về chủ đề này, mong được góp phần cung cấp thêm cho Đảng và Nhà nước Việt Nam những luận cứ khoa học và thực tiễn không chỉ của sự phát triển trong nước ta mà cả tham khảo kinh nghiệm thế giới, khu vực về những vấn đề liên quan mà phạm vi tham luận này chưa thể đề cập đến.
- Để từ đó đề xuất những kiến nghị, giải pháp có tinh khả thi nhằm phát triển mạnh nhưng bền vững các vùng KTTĐ của Việt Nam..
- Các bài viết liên quan của nhiều tác giả đã đăng Tạp chí Nghiên cứu Kinh tế, Tạp chí Kinh tế và dự báo, Tạp chí Cộng sản… Thời báo Kinh tế Việt Nam, Đầu tư.v.v.)