« Home « Kết quả tìm kiếm

So sánh truyền thuyết và lễ hội Hai Bà Trưng ở Mê Linh và Phú Thọ


Tóm tắt Xem thử

- SO SÁNH TRUYỀN THUYẾT VÀ LỄ HỘI HAI BÀ TRƢNG Ở MÊ LINH VÀ PHÚC THỌ.
- Tôi xin cảm ơn Ban quản lý di tích đền Hai Bà Trƣng ở Hát Môn – Phúc Thọ và ở Hạ Lôi – Mê Linh đã tạo mọi điều kiện giúp đỡ tôi về mặt tƣ liệu thực tế..
- Truyền thuyết và phân loại truyền thuyết.
- Lễ hội.
- Mối quan hệ giữa truyền thuyết và lễ hội.
- Thống kê và phân loại chuỗi truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng ở Mê Linh và Phúc Thọ.
- Thống kê chuỗi truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Mê Linh và Phúc Thọ.
- Phân loại các truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Mê Linh và Phúc Thọ.
- Những điểm tƣơng đồng trong chuỗi truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng ở Mê Linh và Phúc Thọ.
- Kết cấu chuỗi truyền thuyết.
- Những điểm khác biệt trong chuỗi truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng ở Mê Linh và Phúc Thọ.
- Truyền thuyết về các âm thần phù trợ Hai Bà ở Mê Linh.
- Truyền thuyết về ngày tận của Hai Bà.
- Các truyền thuyết địa danh liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Mê Linh và Phúc Thọ.
- 2.3.3.1 Các truyền thuyết địa danh liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Mê Linh.
- 2.3.3.1 Các truyền thuyết địa danh liên quan đến cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Phúc Thọ.
- Truyền thuyết phong vật về bánh trôi làng Hát Error! Bookmark not defined..
- Chƣơng 3: NHỮNG TƢƠNG ĐỒNG VÀ KHÁC BIỆT TRONG LỄ HỘI HAI BÀ TRƢNG Ở MÊ LINH VÀ PHÚC THỌ.
- Thống kê các lễ hội về Hai Bà Trƣng và các tƣớng lĩnh trên địa bàn huyện Mê Linh và Phúc Thọ.
- Những điểm tƣơng đồng trong lễ hội Hai Bà Trƣng ở Hạ Lôi và Hát Môn.
- Những khác biệt trong lễ hội Hai Bà Trƣng ở Hạ Lôi và Hát Môn.
- 3.3.1 Thời gian của lễ hội.
- Nghi thức tế lễ ở lễ hội Hát Môn – Phúc Thọ Error! Bookmark not defined..
- Những kiêng kỵ trong lễ hội.
- Ý nghĩa của lễ hội Hai Bà Trƣng.
- Cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng năm 40 chống quân Đông Hán xâm lƣợc thắng lợi đã giành quyền tự chủ cho đất nƣớc.
- Xung quanh cuộc khởi nghĩa oanh liệt đó có rất nhiều truyền thuyết ly kỳ và nhiều lễ hội ở nhiều địa phƣơng tái hiện lại cuộc khởi nghĩa đó.
- Cùng với dòng chảy của thời gian, chuỗi truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng đƣợc lƣu truyền ở nhiều địa phƣơng nhƣ một mạch ngầm chảy trong tâm trí của nhân dân 20 thế kỷ qua.
- Nghiên cứu chuỗi truyền thuyết này không chỉ có ý nghĩa về mặt lịch sử mà còn có giá trị to lớn về mặt tƣ tƣởng, văn hóa tín ngƣỡng, tâm linh.
- Tuy nhiên chuỗi truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà sẽ phong phú, sinh động hơn khi đƣợc “sống” trong môi trƣờng diễn xƣớng của lễ hội.
- Truyền thuyết và lễ hội Hai Bà Trƣng tồn tại ở nhiều địa phƣơng, vùng miền khác nhau, mỗi vùng miền lại lƣu truyền những câu chuyện kể, có những nghi lễ thờ cúng khác nhau theo những đặc điểm, phong tục, tập quán, quan niệm riêng của mình.
- Hai trong số những địa phƣơng tiêu biểu trong việc lƣu truyền truyền thuyết và lễ hội Hai Bà là Mê Linh – quê hƣơng của Hai Bà, cũng là nơi Hai Bà xƣng vƣơng, đóng đô và Phúc Thọ - nơi Hai Bà lập đàn thề khởi nghĩa, trẫm mình tự tận để bảo toàn danh tiết.
- Đặt truyền thuyết và lễ hội Hai Bà Trƣng ở huyện Mê Linh trong sự so sánh với truyền thuyết và lễ hội Hai Bà Trƣng ở huyện Phúc Thọ để tìm ra những nét tƣơng đồng và khác biệt thông qua khảo sát, điền dã thực tế, sƣu tầm tƣ liệu và điều tra xã hội học sẽ cho chúng ta nhiều điều độc đáo, hấp dẫn từ góc độ văn học dân gian..
- Từ những lý do trên chúng tôi đã chọn đề tài luận văn thạc sĩ là So sánh truyền thuyết và lễ hội Hai Bà Trưng ở Mê Linh và Phúc Thọ để nghiên cứu..
- Đối tƣợng nghiên cứu chính của luận văn là chuỗi những truyền thuyết dân gian xung quanh cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng cùng các tƣớng lĩnh.
- lễ hội Hai Bà Trƣng và các tƣớng lĩnh trên địa bàn 2 huyện Mê Linh và Phúc Thọ (Thành phố Hà Nội)..
- Riêng phần lễ hội tập trung chủ yếu là lễ hội Hai Bà Trƣng ở hai làng Hạ Lôi – Mê Linh và Hát Môn – Phúc Thọ.
- Bởi đây là hai làng tiêu biểu nhất trong việc thờ tự và tổ chức lễ hội Hai Bà ở Mê Linh và Phúc Thọ nói riêng cũng nhƣ ở đồng bằng sông Hồng nói chung.
- Mê Linh và Phúc Thọ đã qua nhiều lần thay đổi tên gọi, thay đổi địa giới hành chính, nhƣng luận văn chỉ chủ yếu tập trung khảo sát, nghiên cứu các truyền thuyết và lễ hội ở hai huyện này với địa giới hành chính nhƣ hiện nay..
- Luận văn sẽ so sánh nhằm chỉ ra những nét tƣơng đồng cũng nhƣ khác biệt trong hệ thống các truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trƣng lƣu hành ở Mê Linh và Phúc Thọ..
- Với việc điền dã, điều tra dân tộc học và văn hóa dân gian, luận văn có đóng góp vào việc sƣu tầm, bổ sung nguồn tƣ liệu thực tế liên quan đến truyền thuyết và lễ hội Hai Bà Trƣng ở Mê Linh và Phúc Thọ..
- Luận văn cũng góp phần khẳng định tính hiệu quả trong hƣớng nghiên cứu hiện nay của văn học dân gian là: tổng hợp, liên ngành, vừa kết hợp khảo sát văn bản có sẵn, vừa đi điền dã, khai thác kho tàng truyền thuyết dân gian gắn với môi trƣờng thực tiễn..
- Những tương đồng và khác biệt trong chuỗi truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa của Hai Bà Trưng ở Mê Linh và Phúc Thọ.
- Những tương đồng và khác biệt trong lễ hội Hai Bà Trưng ở Mê Linh và Phúc Thọ..
- Truyền thuyết và phân loại truyền thuyết Khái niệm truyền thuyết.
- Trƣớc đây truyền thuyết là một khái niệm khá mơ hồ, thiếu xác định.
- Có quan niệm cho rằng truyền thuyết dùng để chỉ một mẩu chuyện đƣợc lƣu truyền nhƣng chƣa hoàn chỉnh hay không có cốt truyện.
- Hoặc có quan niệm cho rằng truyền thuyết là những chuyện truyền miệng lấy nhân vật, sự kiện lịch sử làm nội dung.
- Nhƣng hiện nay, thuật ngữ truyền thuyết chủ yếu đƣợc dùng với tƣ cách là một thể loại văn học dân gian..
- Ở Việt Nam, truyền thuyết từ lâu đã đƣợc ghi chép thành văn bản..
- Nguyễn Đổng Chi trong Kho tàng truyện cổ tích Việt Nam đã đề cập đến khái niệm này: “Truyền thuyết dùng để chỉ những câu chuyện cũ, những sự việc lịch sử còn đƣợc truyền lại nhƣng không đảm bảo về mặt chính xác.
- Có thể do truyền rộng mà sai lạc, cũng có thể do tƣởng tƣợng của quần chúng phụ họa, thêu dệt mà càng sai lạc hơn.Và truyền thuyết phần nhiều chƣa đƣợc xây dựng thành truyện.
- Trong bài viết Văn học dân gian là một kho tàng quý báu cho sử học in trong cuốn Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng ông cũng viết thêm: “Cái mà ta gọi là truyền thuyết chỉ là những truyện kể đƣợc quét một lớp sơn ảo tƣởng.
- Phan Trần trong Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử chú ý đến phƣơng thức phản ánh truyền thuyết: “Truyền thuyết là những truyện truyền tụng trong dân gian về những sự việc và nhân vật có liên quan đến lịch.
- Hồ Quốc Hùng trong Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại có nêu ra định nghĩa của mình về truyền thuyết: “Truyền thuyết là ký ức cộng đồng về quá khứ, chủ yếu nó phản ánh niềm tin, sự ngƣỡng mộ của nhân vật đối với nhân vật và sự kiện kịch sử của dân tộc ít nhiều bằng hƣ cấu, tƣởng tƣợng.
- Lịch sử đọng lại trong truyền thuyết nhƣ những tia hồi quang phủ lên cảnh vật, phong thổ của đất nƣớc làm đắm say biết bao thế hệ” [16, tr.
- Trong Văn hóa dân gian khảo sát và nghiên cứu, Giáo sƣ Lê Chí Quế đã dựa trên đặc trƣng phản ánh của truyền thuyết để định nghĩa: “Truyền thuyết là một thể loại trong loại hình tự sự dân gian phản ánh những sự kiện, nhân vật lịch sử, danh nhân văn hóa hay nhân vật tôn giáo thông qua sự hƣ cấu nghệ thuật thần kỳ” [41, tr.
- Nhƣ vậy, ngƣời ta không thể tìm thấy trong truyền thuyết những sự kiện lịch sử chính xác đích thực, nhƣng lại có thể tìm thấy những thứ mà không có một tài liệu lịch sử nào có thể ghi lại đƣợc.
- Và truyền thuyết thể hiện tất cả những điều đó nhờ yếu tố tƣởng tƣợng, hƣ cấu..
- Yếu tố tƣởng tƣợng, hƣ cấu trong truyền thuyết làm cho hành trạng của mỗi nhân vật anh hùng trở nên kỳ vĩ, nhân vật đƣợc sánh ngang tầm thần thánh, tạo nên một cốt truyện truyền cảm, sinh động, vừa chân thực vừa hấp dẫn, giúp cho truyền thuyết trở thành một tác phẩm nghệ thuật thực thụ chứ không phải là một tài liệu sử học.
- Phân loại truyền thuyết.
- Việc phân loại các thể loại văn học dân gian nói chung và phân loại truyền thuyết nói riêng khó có thể mạch lạc.
- Lê Chí Quế trong Giáo trình văn học dân gian Việt Nam, viết chung với Võ Quang Nhơn và Nguyễn Hùng Vĩ, Nhà xuất bản Đại học quốc gia, in lần thứ hai, xuất bản năm 1996 chia làm ba loại: truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết anh hùng, truyền thuyết về các danh nhân văn hóa.
- Đỗ Bình Trị trong Văn học [56] chia truyền thuyết làm ba loại: truyền thuyết địa danh, truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết phổ hệ.
- Vũ Ngọc Khánh trong Truyền thuyết Việt Nam [19] lại chia thành: truyền thuyết địa danh và di tích, truyền thuyết lịch sử, truyền thuyết tổ ngành nghề.
- Còn Kiều Thu Hoạch trong Văn học dân gian người Việt – góc nhìn thể loại [14] đã chia truyền thuyết làm ba loại: truyền thuyết nhân vật, truyền thuyết phong vật, truyền thuyết địa danh….Ở đây chúng tôi thấy cách phân loại của nhà nghiên cứu Kiều Thu Hoạch đã dựa trên đặc trƣng phản ánh của truyền thuyết, lấy đối tƣợng và nội dung của truyền thuyết làm yếu tố quan trọng.
- Truyền thuyết nhân vật: là những truyện kể dân gian về những nhân vật và sự kiện lịch sử..
- Truyền thuyết địa danh là những truyện kể dân gian để nhằm giải thích nguồn gốc tên gọi của tên gọi của địa danh ở các địa phƣơng có gắn các sự kiện.
- Truyền thuyết phong vật là truyền thuyết về các phong tục và sản vật của địa phƣơng, giải thích về nguồn gốc các phong tục, kỵ hèm, hội hè, trò diễn, diễn xƣớng dân gian…hoặc các sản vật có gắn với các nhân vật hoặc sự kiện lịch sử..
- Lễ hội là một hình thức sinh hoạt văn hóa dân gian phổ biến ở nƣớc ta..
- Sinh hoạt văn hóa ấy của cƣ dân đƣợc gọi là lễ hội” [60, tr.
- Trong Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng, tác giả Lê Văn Kỳ đã đƣa ra định nghĩa: “Hội lễ là một cuộc vui lớn của cộng đồng nhằm đáp ứng nhu cầu giải trí, tín ngƣỡng, thi thố tài năng,biểu dƣơng sức mạnh, tái hiện cuộc sống con ngƣời trong trƣờng kỳ lịch sử.Nó là một loại hình tổng hợp bao gồm nhiều yếu tố văn hóa dân gian luôn luôn tƣơng tác lẫn nhau” [21, tr.
- Trần Thị An (1994), Nghiên cứu truyền thuyết - Những vấn đề đặt ra, Tạp chí văn học, số 7, tr 34 – 37..
- Nguyễn Thị Thu Cúc (2009), Hình tượng nữ tướng trong chuỗi truyền thuyết về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng lưu hành ở Vĩnh Phúc, Luận văn Th.s, ĐH Sƣ phạm Hà Nội..
- Nguyễn Thế Dũng (2004), Truyền thuyết và lễ hội về Hai Bà Trưng ở Hát Môn – Phúc Thọ - Hà Tây, Luận văn Th.s, ĐH Sƣ phạm Hà Nội..
- Minh Hà (1962), Hai Bà Trưng và Bà Triệu, Nxb Phụ nữ..
- Thu Hà (2009), Danh nữ trong truyền thuyết và lịch sử Việt Nam, Nxb.
- Q.2 : Truyền thuyết về thời Bắc thuộc Ngô - Đinh - Tiền Lê..
- T.1 : Thần thoại - truyền thuyết.
- Hồ Quốc Hùng (2003), Truyền thuyết Việt Nam và vấn đề thể loại, Nxb Trẻ, Hội nghiên cứu và giảng dạy Văn học Tp.
- Vũ Ngọc Khánh, Trần Thị An, Phạm Minh Thảo (1998), Truyền thuyết Việt Nam, Nxb.
- Vũ Tiến Kỳ (1990), Tìm hiểu truyền thuyết qua lễ hội, Tạp chí văn học dân gian, số 4..
- Lê Văn Kỳ (1996), Mối quan hệ giữa truyền thuyết người Việt và hội lễ về các anh hùng, Nxb Khoa học xã hội, Hà Nội..
- Đinh Văn Nhật (1982), Huyện lị Mê Linh và quê hƣơng của Hai Bà Trƣng qua thƣ tịch cổ, Nghiên cứu lịch sử, số 4, tr 50 – 57..
- Nguyễn Bích Ngọc (2005), Hai Bà Trưng trong văn hoá Việt Nam, Nxb..
- Phạm Lan Oanh (2008), Tín ngưỡng Hai Bà Trưng ở vùng châu thổ sông Hồng, LATS Văn hoá dân tộc, Hà Nội..
- Phạm Lan Oanh (2013), Lễ hội dân gian làng Hát Môn, Nxb.
- Trần Quốc Phi, Nguyễn Văn Mao, Lê Đức Đồng....(1975), Truyền thuyết Trưng Vương, Vĩnh Phú, Chi hội văn nghệ dân gian Vĩnh Phú..
- Phạm Ngọc Phụng (1975), Hai Bà Trưng, Nxb Phụ nữ..
- Nguyễn Vinh Phúc (2005), Cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng ở Hà Nội và lân cận, Tái bản, có sửa chữa, bổ sung, Nxb.
- Bùi Quang Thanh (1982), Truyền thuyết dân gian với tâm lý cộng đồng ngƣời Việt, Tạp chí văn học, số 2..
- Bùi Quang Thanh (1983), Sơ bộ thẩm định một số giá trị của truyền thuyết dân gian về cuộc khởi nghĩa Hai Bà Trưng, Luận văn Th.s, ĐH Sƣ phạm Hà Nội..
- Bùi Thiết, Hà Văn Kỉnh, Nguyễn Hồng Dƣơng…(1979), Một số truyền thuyết về tướng lĩnh Hai Bà Trưng, Hà Sơn Bình, Ty văn hoá thông tin Hà Sơn Bình..
- Bùi Thiết (1982), Ngọc phả và truyền thuyết về Hai Bà Trƣng ở Hạ Lôi, Nghiên cứu lịch sử, số 4, Tr 58 – 62..
- Lê Kim Thuyên (2003), Hai Bà Trưng và các tướng của Hai Bà trên đất Vĩnh Phúc, di tích và sự tích, Sở Văn hóa thông tin – thể thao Vĩnh Phúc..
- Lê Kim Thuyên (2006), Lễ hội Vĩnh Phúc, Sở văn hóa thông tin Vĩnh Phúc..
- Phan Trần (1967), Tinh thần dân tộc qua các truyền thuyết lịch sử, Tạp chí văn học, số 3..
- Lê Trung Vũ (chủ biên), Nguyễn Xuân Kính, Lê Văn Kỳ (1992), Lễ hội cổ truyền, Nxb Khoa học xã hội và nhân văn, Hà Nội..
- Văn hóa..
- Nguyễn Khắc Xƣơng (1973), Tìm hiểu quan hệ giữa thần thoại, truyền thuyết và diễn xƣớng tín ngƣỡng phong tục, Tạp chí văn học, số 6.