« Home « Kết quả tìm kiếm

Báo điện tử với việc quảng bá các di sản văn hóa vật thể được UNESCO công nhận


Tóm tắt Xem thử

- CÁC DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN.
- Hà Nội - 2014.
- Bên cạnh đó, tôi xin gửi lời cảm ơn tới cán bộ của Cục Di sản văn hóa và các phóng viên, biên tập viên thực hiện chuyên mục văn hóa ở các báo VnExpress, Dân trí, Vietnamnet.
- Qua cuộc trò chuyện và phỏng vấn các anh, chị, tôi đã có cơ hội tìm hiểu kỹ hơn về đề tài này với góc nhìn từ thực tiễn về báo chí, truyền thông và văn hóa từ công việc của các anh, các chị.
- Chƣơng 1: LÝ LUẬN VỀ QUAN HỆ TRUYỀN THÔNG - VĂN HÓA GIƢ̃A BÁO MẠNG ĐIỆN TỬ VÀ DI SẢN VĂN HÓA ĐƢỢC UNESCO CÔNG.
- 1.1 Báo mạng điện tử.
- 1.2 Di sản văn hóa.
- 1.3 Các yếu tố cu ̉ a quan hê ̣ truyền thông - văn hóa giƣ̃a báo ma ̣ng điê ̣n tƣ̉ và di sản văn hóa đƣợc UNESCO công nhận.
- 1.3.1 Môi trƣờng truyền thông.
- 1.3.2 Chiến lƣợc truyền thông.
- 1.3.3 Năng lực văn hóa và truyền thông.
- 1.4 Vai trò và chức năng của báo mạng điện tử trong quan hê ̣ truyền thông – văn hóa giƣ̃a báo ma ̣ng điê ̣n tƣ̉ và di sản văn hóa đƣơ ̣c UNESCO công nhâ ̣n.
- Chƣơng 2: PHÂN TÍCH THƢ̣C TRẠNG VÀ HIỆU QUẢ VIỆC QUẢNG BÁ CÁC DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TƯ.
- 2.1 Các di sản văn hóa vật thể đƣợc UNESCO công nhận.
- 2.2 Vài nét cơ bản về các báo mạng điện tử khảo sát.
- 2.3 Phân ti ́ch thƣ̣c tra ̣ng và hiê ̣u quả viê ̣c quảng bá các di sản văn hóa vâ ̣t thể.
- đƣơ ̣c UNESCO công nhâ ̣n trên báo mạng điện tử.
- 2.3.5 Hiê ̣u quả của công tác bảo tồn và phát huy giá tri ̣ di sản văn hóa vâ ̣t thể đƣơ ̣c UNESCO công nhâ ̣n.
- Chƣơng 3: GIẢI PHÁP NÂNG CAO HIỆU QUẢ CỦA VIỆC QUẢNG BÁ CÁC DI SẢN VĂN HÓA VẬT THỂ ĐƢỢC UNESCO CÔNG NHẬN TRÊN BÁO MẠNG ĐIỆN TƯ.
- 3.2 Về môi trƣờng truyền thông.
- 3.2.1 Về công tác quản lý và chiến lƣợc truyền thông.
- 3.2.3 Về năng lực văn hóa và truyền thông.
- 3.2.4 Về công chúng của báo mạng điện tử.
- BMĐT Báo mạng điện tử.
- DSVHVT Di sản văn hóa vâ ̣t thể.
- DSVHPVT Di sản văn hóa phi vâ ̣t thể.
- 1: Biểu đồ số lượng bài về Di sản văn hóa vật thể được UNESCO công nhận trên báo mạng điện tử (2013.
- 2: Biểu đồ mô tả mức độ quan tâm của các cơ quan báo mạng điện tử đối với việc quảng bá di sản văn hóa vật thể được UNESCO công nhận.
- 3: Biểu đồ mô tả các chủ đề quảng bá về di sản văn hóa vâ ̣t thể được UNESCO công nhận trên báo mạng điện tử theo chủ đề (2013.
- 4: Biểu đồ mô tả các chủ đề quảng bá về di sản văn hóa vật thể được UNESCO công nhận trên báo mạng điện tử theo từng di sản (2013.
- Sau 20 năm kể từ khi di sản văn hóa vật thể đầu tiên tại Việt Nam, Cố đô Huế, được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới vào năm 1993, tới cuối năm 2013, thời điểm luận văn nghiên cứu, Việt Nam đã có 7 di sản thế giới được UNESCO ghi danh ở các hạng mục: di sản văn hóa và di sản thiên nhiên, bao gồm:.
- Trong đó, dễ dàng thấy số lượng DSVHVT nhận được danh hiệu di sản thế giới chiếm con số đáng kể (5/7).
- Bên cạnh đó là hệ thống các danh hiệu khác có liên quan tới yếu tố văn hóa được UNESCO trao tặng cho Việt Nam như: 3 di sản tư liệu thế giới (Mộc bản triều Nguyễn, Mộc bản chùa Vĩnh Nghiêm và Bia đề danh Tiến sỹ Văn Miếu – Quốc Tử Giám (Hà Nội), 8 di sản văn hóa phi vật thể được công nhận là kiệt tác của nhân loại (Đờn ca tài tử Nam Bộ, Tín ngưỡng thờ cúng Hùng Vương, Hát xoan, Hội Gióng tại đền Sóc và đền Phù Đổng, Hà Nội, Ca trù, Dân ca Quan họ, Không gian văn hóa Cồng Chiêng Tây Nguyên, Nhã nhạc Cung đình Huế), 8 khu dự trữ sinh quyển thế giới tại Việt Nam (KDTSQ rừng ngập mặn Cần Giờ, KDTSQ Đồng Nai, KDTSQ Cát Bà, KDTSQ châu thổ sông Hồng, KDTSQ ven biển và biển đảo Kiên Giang, KDTSQ miền Tây Nghệ An và KDTSQ Mũi Cà Mau, KDTSQ Cù Lao Chàm) và 1 công viên địa chất toàn cầu (Cao nguyên đá Đồng Văn).
- Tháng 6/ 2014 vừa qua, Quần thể danh thắng Tràng An lại vinh dự được Ủy ban Di sản Thế giới công nhận là Di sản Thế giới hỗn hợp, đảm bảo được cả tiêu chí về văn hóa và thiên nhiên, mang lại niềm tự hào lớn cho các giá trị văn hóa và thiên nhiên của Việt Nam.
- Các danh hiệu này, đặc biệt là 5 di sản văn hóa thế giới, có vai trò và ý nghĩa đặc biệt quan trọng, là những chứng tích vật chất phản ánh sâu sắc nhất, toàn vẹn nhất về đặc trưng văn hoá và cội nguồn dân tộc, là niềm tự hào về giá trị văn hóa nghìn đời của Việt Nam trên trường quốc tế..
- Với những ý nghĩa to lớn mà các di sản này lưu giữ, không chỉ ở tầm quốc gia mà còn được quốc tế công nhận, công tác bảo tồn và phát huy những giá trị hiện có của các di sản văn hóa vật thể Việt Nam được UNESCO công nhận trở thành một trong những nhiệm vụ trọng tâm không chỉ của ngành văn hóa mà còn là của toàn xã hội.
- Đại hội XI của Đảng Cộng sản Việt Nam đã thông qua Cương lĩnh xây dựng đất nước trong thời kỳ quá độ lên Chủ nghĩa xã hội (bổ sung, phát triển năm 2011), trong đó khẳng định: “Xây dựng nền văn hoá Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, phát triển toàn diện, thống nhất trong đa dạng, thấm nhuần sâu sắc tinh thần nhân văn, dân chủ, tiến bộ.
- Luật Di sản Văn hóa có hiệu lực từ 1/1/2002 cũng cho thấy vai trò quan trọng của các di sản văn hóa tại Việt Nam, đồng thời chứng minh được tính nhất quán trong sự nghiệp bảo vệ và phát triển di sản văn hóa của Đảng và Nhà nước ta, thể hiện nguyện vọng, ý chí chung của toàn dân tộc trong sự nghiệp đầy khó khăn và thử thách này..
- Về mặt báo chí, tới năm 2007, Nghị quyết TW 5, khóa X được ban hành đã chỉ rõ việc bảo vệ và phát huy những giá trị tốt đẹp trong truyền thống văn hoá dân tộc, những tinh hoa văn hoá thế giới chiếm vị trí chủ đạo trong đời sống tinh thần xã hội là một trong những công tác quan trọng của báo chí Việt Nam.
- [1] Đào Duy Anh (2002), Việt Nam văn hóa sử cương, NXB Văn hóa Thông tin , Hà Nội..
- [3] Ban Chấp hành TƯ Đảng khóa XI (2014), Nghị quyết Trung ương 9, khóa XI về xây dựng và phát triển văn hóa, con người Việt Nam đáp ứng yêu cầu phát triển bền vững đất nước..
- [4] Ban Tư tưởng - Văn hóa Trung ương, Bộ Văn hóa - Thông tin, Hội nhà báo Việt Nam (2002), Tiếp tục thực hiện Chỉ thị 22-CT/TW của Bộ Chính trị (Khóa VIII) về đổi mới và tăng cường sự lãnh đạo, quản lý công tác báo chí, xuất bản, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội..
- [5] Ban Tư tưởng – Văn hóa Trung ương (2007), Báo cáo sơ kết 2 năm thực hiện thông báo kết luận 162 – TB/TW của Bộ Chính trị về một số biện pháp tăng cường lãnh đạo, quản lý báo chí, Hà Nội..
- [6] Lê Thanh Bình (2008), Truyền thông đại chúng và phát triển xã hội, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội..
- [8] Bộ Văn hóa Thông tin (2007), Báo cáo tình hình công tác quản lý nhà nước về báo chí, Hà Nội..
- [9] Lương Thị Quỳnh Chi (2011), Vấn đề truyền thông bốn di sản văn hóa phi vật thể của Việt Nam được UNESCO công nhận: Nhã nhạc cung đình Huế, Không gian văn hóa Cồng chiêng Tây Nguyên, Quan họ, Ca trù trên báo in và báo điện tử, Luận văn thạc sỹ, Khoa Báo chí – Truyền thông, ĐH KHXHNV, Hà Nội..
- [10] Đức Dũng (2000), Sáng tạo tác phẩm báo chí, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội..
- [11] Đức Dũng (2000), Viết báo như thế nào, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội..
- [12] Nguyễn Văn Dững (2012), Cơ sở lý luận Báo chí, NXB.
- [15] Vũ Quang Hào (2001), Ngôn ngữ báo chí, NXB ĐHQG, Hà Nội..
- [16] Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh, Phân viện Báo chí và Tuyên truyền Giáo trình Cơ sở lý luận báo chí, (1999), Giáo trình cơ sở lý luận báo chí, NXB Văn hóa, Hà Nội.
- [17] Nguyễn Quốc Hùng (2004), Tầm nhìn tương lai đối với di sản văn hóa và hệ thống bảo vệ di tích ở nước ta, Tạp chí Di sản Văn hóa, số 9, 2004..
- [18] Nguyễn Thụy Loan (2009), Giá trị của di sản văn hoá phi vật thể ở Thăng Long – Hà Nội, Tạp chí Văn hoá dân gian, số 6, 2009..
- [19] Nhiều tác giả (2005), Thể loại báo chí, NXB ĐHQG TP HCM..
- [20] Phạm Xuân Nam (2008), Sự đa dạng văn hóa và đối thoại giữa các nền văn hóa, NXB Khoa học xã hội, Hà Nội..
- [22] Quốc hội nước CHXHCN Việt Nam (2001), Luật Di sản văn hóa Việt Nam..
- [27] Trần Ngọc Thêm (1995), Cơ sở Văn hóa Việt Nam, Trường Đa ̣i ho ̣c Tổng hơ ̣p, NXB TP.HCM..
- [28] Trần Ngọc Thêm (2001), Tìm về bản sắc văn hóa Việt Nam, NXB TP.HCM..
- [29] Vũ Duy Thông (chủ biên) (2004), Thực trạng và giải pháp nâng cao trình độ cán bộ báo chí hiện nay, Đề tài khoa học, Ban Tư tưởng Văn hóa Trung ương, Hà Nội..
- [31] Thủ tướng Chính phủ (2013), Quyết định 201/QD-TTg phê duyệt “Quy hoạch tổng thể phát triển du lịch Việt Nam đến năm 2020, tầm nhìn đến năm 2030”, Hà Nội..
- [32] Lưu Minh Trị (chủ biên) (2002), Tìm trong di sản văn hóa Việt Nam, Thăng Long – Hà Nội, NXB Văn hóa Thông tin, Hà Nội..
- [33] Nguyễn Văn Dững (2007), Nâng cao năng lực giám sát xã hội của báo chí, Tạp chí Lý luận Chính trị và truyền thông, số Xuân Đinh Hợi 2007..
- [34] Nguyễn Ánh Hồng (2012), Báo chí và văn hóa Việt Nam trong quá trình hội nhập quốc tế, Kỷ yếu hội thảo “Văn hóa truyền thông trong thời kỳ hội nhập”..
- [35] Phạm Thúy Hợp (2012), Di sản văn hóa với truyền thông, Tạp chí Di sản văn hóa, số 4 (41.
- [36] Nguyễn Thế Hùng (2007), Phát huy giá trị di tích phục vụ sự nghiệp bảo vệ, xây dựng và phát triển đất nước, Tạp chí Di sản Văn hóa số 20 – 2007..
- [38] Mai Quỳnh Nam (2005), Nghiên cứu hiệu quả truyền thông đại chúng, Báo chí những vấn đề lý luận và thực tiễn, tập 6, NXB Đại học Quốc gia Hà Nội, Hà Nội..
- [39] Giáp Văn Tấp (2012), Truyền thông đại chúng và vấn đề gìn giữ, phát triển những giá trị văn hóa Việt Nam hiện nay, Kỷ yếu hội thảo “Văn hóa truyền thông trong thời kỳ hội nhập”, Hà Nội.