« Home « Kết quả tìm kiếm

KIẾN TẠO HIỆN ĐẠI VÀ CÁC TAI BIẾN ĐỊA CHẤT LIÊN QUAN Ở VÙNG BIỂN VIỆT NAM VÀ LÂN CẬN


Tóm tắt Xem thử

- Mở đầu trong khối Sunda chỉ có những trận động đất yếu và độ sâu chấn tiêu nông.
- Luận điểm thứ 2 là đang cắm xuống mảng Âu - Á dọc theo đới hút chuyển dịch của khối thạch quyển cứng dọc theo chìm Sunda với vận tốc 6-7cm/năm.
- Phân bố chấn các đới đứt gãy hẹp [19].
- Việc xác định chính xác tiêu động đất chính và dư chấn theo mặt cắt cũng chuyển dịch cho phép hiểu rõ hơn các mô hình này phản ánh hướng cắm của mảng Ấn - Úc chúi hoặc hiệu chỉnh các mô hình trên.
- Những trận động đất lớn nhất trên thế giới thường xảy ra tại ranh giới hội tụ Trước đây, khối Sunda thường được xem là của hai mảng, nơi có sự xiết ép mạnh mẽ.
- Tuy nhiên, những trận động đất lớn nhất trong thời gian gần đây, 9 nghiên cứu địa chất và địa vật lý ở Indonesia cho trận động đất trước đều gắn liền với hoạt động xiết thấy Đông Nam Á chuyển dịch khác hẳn mảng Âu ép của đới hút chìm ở rìa Thái Bình Dương.
- Khẳng định những quan sát đó chỉ được kiểm động đất tại Sumatra cũng không ngoại lệ và liên chứng nhờ tiến bộ quan trọng trong trắc địa vũ trụ, quan tới hoạt động xiết ép của đới hút chìm Sunda kể từ năm 1990.
- Phần lớn GPS cho phép xác định chính xác chuyển dịch của vùng Đông Nam Á hiện nay gồm Việt Nam, Lào, vỏ Trái Đất.
- Mạng đo địa động lực của Nam và Campuchia, Thái Lan, bán đảo Malaysia, Sumatra, Đông Nam Á (GEODYSSEA) với gần 40 trạm Borneo, Java và hầu như toàn bộ Biển Đông được phân bố trên toàn Đông Nam Á, khẳng định Sunda bao quanh bởi các đới hút chìm, gồm mảng là một khối gắn kết, chuyển dịch so với mảng Âu - Philippin, mảng Úc, mảng Ấn Độ được xếp vào Á và tách biệt với nền Siberi qua một loạt các khối khối Sunda (theo định nghĩa của Simons và nnk., biến dạng và chuyển dịch [22].
- Về phía bắc khối Sunda bị bao bởi trạm đo GPS với xấp xỉ bậc nhất cho thấy Đông phần đông nam của đới đụng độ Ấn Độ - Âu Á và Nam Á chuyển dịch về phía đông cỡ 1cm/năm so nam Trung Hoa.
- Hầu hết các trận động đất đều với nền Siberi, vẫn có sự khác biệt đáng kể về phân phân bố trong đới hút chìm và đới đụng độ.
- Từ năm 1998, mạng đo mạng, những điểm chịu tác động của động đất bị GPS ở Đông Nam Á đã được mở rộng đáng kể cả loại trừ và sự nhảy vị trí đã được xác định (với các đo theo các đợt đo và trạm ghi liên tục.
- Kết quả nghiên cứu này trước đây của các tác giả khác nhau về chuyển dịch giúp mở rộng thời gian đo trong một thập kỷ với kiến tạo hiện đại có tính tới kết quả mới nhất đo gần 100 điểm đo.
- Tất cả các số đo đã được xử lý chuyển dịch kiến tạo hiện đại trong khuôn khổ đề trên thành tựu mới nhất về công nghệ sử lý GPS để tài trọng điểm KC và KC09.11BS.06- xác định được vận tốc chuyển dịch trên hệ thống 10.
- Kể từ 1994, các số đo chuyển dịch kiến tạo hiện đại trên Biển Đông, bài GPS kéo dài trong 10 năm theo từng đợt đo.
- Vận viết còn đánh giá mức độ biến dạng của đới đứt tốc chuyển dịch của các trạm tạo thành đường gãy Manilla, đứt gãy bắc Borneo, đứt gãy rìa tây tuyến tính minh chứng chuyển dịch ổn định.
- Điều Biển Đông (kinh tuyến 110), là những đứt gãy có này có thể kiểm chứng nhờ phân tích độ sai lệch so khả năng sinh chấn cao nhất trên Biển Đông.
- Kết quả xác định tốc độ chuyển dịch kiến tạo 3, 5 và 11mm theo phương bắc-nam, đông-tây và hiện đại trên Biển Đông thẳng đứng.
- Sơ đồ vận tốc chuyển dịch tuyệt đối trong IGS05 của các trạm GPS trên Biển Đông, theo 4 đợt đo các năm đã tiến hành đo liên tục 7 ca, mỗi ca 23 giờ 40 4 nhóm tính toán độc lập được thể hiện ở bảng 1.
- Các chuyển dịch thẳng đứng tại dụng dữ liệu đo liên tục của 6 trạm IGS (COCO, các điểm coi như bằng không.
- Các dữ liệu của IGS như lịch vệ tinh Các tính toán trên GAMIT và trên BERNESE chính xác, mô hình tầng điện ly, các tệp hiệu chỉnh 5.0 của Viện Địa chất (VĐC) và Viện Địa chất và giữa P1-C1, P1-P2 đối với vệ tinh và máy thu, toạ Hạt nhân New Zeland (GNS) đều dàn sai số cho cả độ cũng như vận tốc chuyển dịch của các trạm IGS các trạm IGS và các trạm đo tại Việt Nam.
- BAKO, KUNM và WUHN, chúng ta có thể tính Kết quả này có sai lệch nhẹ với kết quả sơ bộ trước được chuyển dịch tuyệt đối của các trạm đo.
- Kết quả xử lý số liệu GPS, chuyển dịch tuyệt đối trong hệ IGS05 chu kỳ 2007-2010 Vận tốc chuyển dịch Vận tốc chuyển dịch Vận tốc chuyển dịch Tên trạm về phía bắc về phía đông thẳng đứng (tham khảo) TT Phần mềm xử lý GPS Giá trị sai số Giá trị sai số Giá trị sai số (mm/năm) (mm/năm) (mm/năm) (mm/năm) (mm/năm) (mm/năm) BERNESE BLV1 GAMMIT BERNESE BERNESE LANG GAMMIT BERNESE BERNESE DOHO GAMMIT BERNESE BERNESE HUES GAMMIT BERNESE BERNESE STT1 GAMMIT BERNESE BERNESE CDA1 GAMMIT BERNESE BERNESE HOCM GAMMIT BERNESE Bảng 2.
- Tổng hợp kết quả tính vận tốc chuyển động tương đối bởi các phần mềm khác nhau với sự cố định của trạm STT Vận tốc chuyển dịch Vận tốc chuyển dịch Vận tốc chuyển dịch Tên trạm Phần mềm về phía bắc về phía đông thẳng đứng (tham khảo) TT GPS xử lý Giá trị sai số Giá trị sai số Giá trị sai số (mm/năm) (mm/năm) (mm/năm) (mm/năm) (mm/năm) (mm/năm) BERNESE BLV1 GAMMIT BERNESE BERNESE LANG GAMMIT BERNESE GAMMIT DOHO BERNESE BERNESE HUES GAMMIT BERNESE BERNESE STT1 GAMMIT BERNESE BERNESE CDA1 GAMMIT BERNESE BERNESE HOCM GAMMIT BERNESE Chuyển dịch kiến tạo hiện đại trong khối Sunda: Trận động đất xảy ra ở Tứ Xuyên ngày 12 tháng 5 năm 2008 với magnitude 7,9 là kết quả hấp thụ của Nghiên cứu về khu vực nam và đông nam châu chuyển dịch về phía đông qua ranh giới đứt gãy Á, đề án GEODYSSEA thông qua ba chu kỳ đo chờm nghịch ở rìa tây Tứ Xuyên.
- 1994, 1996 và 1998 đã xác định được vận tốc và hướng chuyển dịch tuyệt đối của vỏ Trái Đất trong Đáng chú ý là kết quả của các nhà trắc địa của khu vực này với sai số 4-7mm theo chiều ngang và các nước châu Á, Thái Bình Dương, “Permanent 10 mm theo theo chiều đứng [12].
- và cơ quan trắc địa quốc tế IGS đã tiến quan trắc chuyển dịch vỏ Trái Đất từ 1997 trong hành đo tại 433 điểm từ chương trình CMONOC với 27 trạm đo liên tục và 2001, 2002.
- 2001 và 2004 cho thấy biến dạng trên cao nguyên So với kết quả đo của Trung Quốc và các nước Tây Tạng, các rìa của nó, đới Hymalaya và Altyn châu Á và Thái Bình Dương, kết quả đo lặp của ba Tagh đã hấp thụ 90% chuyển dịch tương đối giữa kỳ đo trong khoảng thời gian 2007-2009 của chúng mảng Ấn - Úc và mảng châu Á .
- Tuy nhiên, với sai số nhỏ rìa đông của cao nguyên Tây Tạng, chuyển dịch về nên giá trị chuyển dịch tuyệt đối hoàn toàn có ý phía đông về rìa tây của Tứ Xuyên trong khi ở bắc nghĩa.
- Chúng ta đã có thể rút ra một số nhận xét về Vân Nam chuyển dịch về đông nam còn ở nam đặc điểm biến dạng của Biển Đông Việt Nam: Vân Nam chuyển dịch chuyển thành nam-đông nam.
- Tại khối Nam Trung Hoa, vận tốc chuyển - Tiếp tục với xu thế chuyển dịch về phía dịch về phía đông trong khoảng 6-10mm/năm [25].
- đông - đông nam đã quan sát thấy trên đất liền của 446 Việt Nam, chúng ta quan sát thấy toàn bộ các trạm tây nam Biển Đông hầu như không bị biến dạng đo GPS đều chuyển dịch về phía đông - đông nam.
- nnk đã tính chuyển dịch tại một số trạm đo bắc Borneo có hướng quay về tây bắc hoặc - Sự suy giảm vận tốc chuyển dịch theo hướng tây tây bắc, từ đó tác giả giả định rằng có một phần từ tây sang đông của các trạm đo GPS phía bắc ranh giới của khối Sunda đi qua rìa phía bắc của (Láng, Bạch Long Vĩ, Hải Nam) cho thấy hiện nay Borneo.
- Theo chúng tôi ranh giới của khối Sunda Vịnh Bắc Bộ bị biến dạng nén và chịu xiết ép theo dịch về phía nam của Borneo vì thực tế có sự thay phương á vỹ tuyến hoặc lệch một chút về phía đổi rất lớn về vận tốc chuyển dịch tại đây, lớn hơn đông đông nam.
- Trường lực này không thuận lợi rất nhiều so với thay đổi vận tốc ở rìa bắc Borneo cho hệ thống đứt gãy đang hoạt động tách dãn với khối Sunda.
- phương á kinh tuyến và cũng không thuận lợi cho các đứt gãy trượt bằng phương tây bắc - đông nam.
- So sánh các vectơ chuyển dịch tại DOHO, Các hướng chính và giá trị chính của trục ứng suất CDA1, STT1 thì có thể thấy biến dạng rất nhỏ.
- biến dạng sẽ được chúng tôi chính xác hoá ở các điều đó chúng tỏ nếu đứt gãy 110 đang hoạt động chu kỳ đo sau.
- Theo tính toán sơ bộ của chúng tôi, thì vận tốc chuyển dịch rất nhỏ.
- Chúng tôi sẽ chính vận tốc biến dạng nén tính từ trạm Láng tới trạm xác hoá vận tốc tối đa của đới đứt gãy này trong Bạch Long Vỹ đạt giá trị xấp xỉ 10-8/năm (~10 những đợt đo tiếp theo.
- Hướng của véctơ chuyển dịch tại được vùng có vận tốc biến dạng rất nhỏ dưới 7 Láng, Bạch Long Vĩ, Hải Nam, Hoàng Sa hầu như nano biến dạng/năm, thể hiện vùng không biến ngược với hướng véctơ chuyển dịch ở PIMO, phản dạng bên trong khối Sunda.
- Ranh giới được chính ánh hướng chuyển dịch của mảng bắc Biển Đông xác hoá và tóm tắt như sau: Về phía tây, khối cắm dưới Philippin tại trũng Manila về phía đông Sunda được bao bởi đứt gãy trượt bằng phải, xác đông nam.
- Nó kéo hút chìm Manila có vận tốc không đều nhau phía dài từ Myanmar tới Sumatra dọc theo đứt gãy bắc đảo Luzon vận tốc chuyển dịch về phía tây bắc Sagaing, hệ thống pull-apart Andaman.
- Đây là bằng chứng nói lên tính phân đoạn của trận động đất Yogakarta năm 2006.
- gãy đang hoạt động đó được khẳng định thì chỉ phần tây của Java là thuộc về Sunda và đứt gãy - Các trạm đo GPS phía nam (Song Tử Tây, trượt bằng, hướng về đông bắc được coi là của Côn Đảo) có hướng chuyển dịch về phía đông nam Sunda (hoặc thềm Sunda).
- Vận tốc biến dạng cao cho thấy chế độ địa động lực ở phía nam Biển giữa Borneo và Sulawesi với mật độ GPS rất cao, Đông đã thay đổi so với phần phía bắc Biển Đông, theo chúng tôi ranh giới mảng Sunda sẽ đi qua vận tốc chuyển dịch ngang nhỏ hơn ở phía bắc.
- Rìa đông của - So sánh các vectơ chuyển dịch ở Thái Lan, Sunda là ba máng biển sâu vòng cung đảo Philipin Vũng Tàu, Malaysia và Palawan, thì vectơ chuyển Cotabato, Negros và trũng Manilla.
- Nhìn chung, vùng nam và tích vận tốc biến dạng: Biển Đông hầu như không 447 biến dạng và khối nam Trung Hoa biến dạng rất đông bắc, phần tây nam của đới đứt gãy sông Hồng yếu.
- Mặc dù trong khối nam Trung Hoa, không có [10], biến dạng tương thích với chuyển dịch trượt dấu hiệu biến dạng nhưng nó có ranh giới về phía bằng phải.
- Tuy nhiên, vận tốc biến dạng qua ranh giới tây là đứt gãy Longmenshan và đứt gãy Xiaojiang.
- Tại điểm Dọc theo đới đứt gãy này là một đới biến dạng này, chỉ sử dụng phân tích biến dạng từ mạng lưới lớn mạnh gây ra do đụng độ giữa mảng Ấn - Úc và rất khó có thể kết luận khối Nam Trung Hoa và mảng Âu - Á.
- chuyển dịch từ Tây Tạng theo chiều Sunda có khác nhau về chuyển dịch hay không [16].
- Biến dạng này mở rộng sang Malaysia và thể hiện ở bắc Thái - Chuyển dịch của khối Sunda cho thấy khá phù Lan bởi tách giãn đông - tây.
- Vận tốc biến dạng hợp với mô hình chuyển dịch khối, xảy ra chủ yếu dọc tăng cao ở tây bắc Thái Lan khẳng định ranh giới đới đứt gãy, thường gọi là mô hình thúc trượt [19] hơn phía bắc của Sunda nằm gần Myanmar.
- Các đới sinh chấn chính trên Biển Đông và trăm cơ cấu chấn tiêu động đất, trường ứng suất kế cận khu vực, chúng tôi đã vạch ra được các đới đứt gãy sinh chấn trên Biển Đông (hình 3).
- Các đường đứt 3.1 Đánh giá địa chấn kiến tạo dựa trên kích gãy gần bờ biển Việt Nam phần lớn là các đứt gãy thước của các đới đứt gãy đang hoạt động ngắn, rời rạc.
- Chúng tôi nhận thấy đới đứt gãy rìa Trên cơ sở nghiên cứu hàng chục nghìn km mặt tây Biển Đông (đứt gãy 110) không phải là đường cắt địa chấn bao gồm mặt cắt địa chấn hai chiều từ đứt gãy kéo dài liên tục hàng trăm km mà chỉ phân công tác thăm dò dầu khí tới mặt cắt địa chấn nông thành những đoạn đứt gãy, phương bắc tây bắc, phân giải cao, hàng nghìn chấn tiêu động đất, hàng không kéo dài liên tục, thậm chí nhiều đoạn dài 448 không có biểu hiện của đứt gãy gây chuyển dịch gãy có biểu hiện hoạt động trong Pliocen - Đệ Tứ.
- Trên các bồn Cửu Long, Đó là các đứt gãy thuận, phân thành các đoạn ngắn Nam Côn Sơn có thể phát hiện hàng loạt các đứt thường không kéo dài quá 15km.
- Phân bố các đứt gãy trẻ và động đất khu vực Biển Đông và kế cận Đới đứt gãy sinh chấn lớn nhất trên Biển Đông thấy đới hút chìm Manila có khả năng phát sinh và kế cận là đới hút chìm Manila với chiều dài tổng động đất lớn nhất.
- Động đất xảy ra ở đới hút chìm cộng hơn 900km.
- Đới đứt gãy bắc Borneo trước có khả năng gây ra sóng thần, ảnh hưởng tới bờ đây được xem như là một đới hút chìm hiện đại biển Việt Nam.
- Dọc theo rìa phía tây Biển Đông, đới đứt gãy chúng tôi nhận thấy tính phân đoạn của đới hút dọc kinh tuyến 110 luôn được xem là đứt gãy đang chìm Manila vì thế đánh giá động đất cực đại cần hoạt động và có khả năng gây ra động đất lớn nhất dựa trên tính phân đoạn của đới hút chìm này (hình trên vùng biển Việt Nam.
- Chúng tôi cũng nhận thấy không có sự tồn tại 449 đới hút chìm bắc Borneo do vận tốc chuyển dịch sinh động đất gây ra sóng thần ở khu vực này.
- kiến tạo hiện đại ở bờ biển Việt Nam, Côn Đảo trùng với vận tốc và chuyển động kiến tạo hiện đại Chúng tôi cũng nhận thấy đới đứt gãy rìa tây ở Bắc Borneo [20] nên không có khả năng phát Thái Bình Dương dọc kinh tuyến 110, từng tồn tại F1 F2 F3 F4 F5 Hình 4.
- Cơ cấu chấn tiêu động đất ở độ sâu 0-15km khu vực Philippin.
- Ở các đứt gãy F1, F2 chỉ tồn tại các cơ cấu chấn tiêu phản ánh ứng suất tách giãn (màu đen), đoạn F3 hầu như vắng mặt các trận động đất.
- Động đất nông khá dày đặc dọc F4 như một đới đứt gãy trượt bằng trong Paleogen và kéo dài liên tục từ Đài Loan tới tây nam đảo Luzon Miocen nhưng biểu hiện hoạt động trong Pliocen - mà có thể phân thành các đoạn khác nhau.
- Điều này có vẻ mâu thuẫn từ quan cho việc phân đoạn đó được dựa trên nhiều nguồn sát địa mạo vì dọc theo đới đứt gãy này là một số liệu khác nhau: địa hình, địa mạo, trường trọng vách kiến tạo rất rõ rệt.
- Trong bể sông Hồng, Bể lực, góc cắm của đới hút chìm, phân bố chấn tiêu Cửu Long và Nam Côn Sơn, chúng tôi đã quan sát động đất, cơ cấu chấn tiêu động đất, trường ứng được nhiều chấn đoạn đứt gãy, có biểu hiện là suất theo độ sâu, vận tốc chuyển dịch.
- Về mặt địa những đoạn đứt gãy rời rạc với chiều dài không hình, đới hút chìm Manila có phương của máng vượt quá 15km.
- Hệ đứt gãy tây Philippin có đặc biển sâu thay đổi chuyển từ phương tây bắc đông điểm không liên tục, chúng được chia thành nhiều nam ở rìa tây Đài Loan sang phương đông bắc tây chấn đoạn có kích thước khác nhau bắt đầu từ tây nam rồi lại chuyển sang phương bắc-nam rồi lại nam đảo Đài Loan tới chạy theo phía tây Philipin, chuyển sang phương tây bắc đông nam.
- Độ sâu của 450 từng máng biển sâu cũng khác nhau, trong đó các lại suy ra biên độ chuyển dịch nhờ công thức của đoạn sâu nhất là đoạn F5.
- Các đoạn của đới phép xác định động đất cực đại bằng phương pháp hút chìm cũng có thể phân biệt dễ dàng nhờ góc moment động đất và cứ thế lặp lại cho tới khi kết cắm của đới hút chìm.
- Chúng tôi chọn hệ số 1 với phương pháp dựa thấy cơ cấu chấn tiêu phản ánh trạng thái tách giãn trên chiều dài đứt gãy, hệ số 2 với phương pháp phân bố dọc theo đới F2 về phía hướng cắm, trong dựa trên diện đứt gãy và hệ số 3 với phương pháp khi đó đối với đoạn F1 thì lại phân bố ngược với dựa trên mặt và chuyển dịch đứt gãy hay còn gọi là hướng cắm.
- Đoạn F3 hầu như vắng mặt các trận phương pháp moment động đất.
- Trên bảng 3 thể động đất trạng thái ứng suất tách giãn.
- Đáng lưu ý hiện kết quả đánh giá động đất cực đại cho đứt gãy phần lớn các cơ cấu chấn tiêu phản ánh trạng thái F4 với chiều dài 256km.
- Chiều rộng đứt gãy 50km, xiết ép tập trung ở đới F4 ứng với độ sâu nhỏ hơn góc cắm 30 độ, chuyển dịch cực đại đạt 3,7m tính 15km.
- phép tính tương tự, có thể đánh giá động đất cực đại cho bể sông Hồng, Bể Cửu Long và Nam Côn 3.2.
- Động đất cực đại Sơn là 6,4.
- Ở những vùng có mật độ động đất cao hoặc Bảng 3.
- Động đất cực đại gây ra bởi F4 của những đới sinh chấn có vận tốc biến dạng lớn, đới hút chìm Manila nguy hiểm động đất thường được đánh giá bởi mô Phương pháp Magnitude hình xác xuất từ số liệu của các động đất lịch sử và ghi được bằng máy.
- Phương pháp trên tỏ ra kém Magnitude theo Slemmons,1982 cho chiều dài đứt gãy: 8,2 hiệu quả khi thời gian ghi quá ngắn và trên những Magnitude theo Well-coppersmith cho chiều dài đứt gãy: 8,0 vùng có chu kỳ lặp động đất lâu dài.
- Khi đó, người Magnitude theo Well-coppersmith cho mặt đứt gãy: 8,3 ta có thể đánh giá nguy hiểm động đất bằng phương pháp địa chấn kiến tạo kết hợp với phân Magnitude theo Wyss, 1979 cho mặt đứt gãy: 8,6 tích xác xuất trong việc dự báo nguy hiểm động đất Magnitude theo Woodward-clyde,1983 cho mặt đứt gãy: 8,6 cho từng vị trí hay từng vùng nhất định.
- Động đất cực Chuyển dịch trung bình (m) theo Well-Coppersmith đại (MCE) là giá trị đặc trưng của nguồn động đất tức là khả năng xuất hiện một trận động đất lớn 4.
- Đánh giá nguy hiểm sóng thần nhất dọc một đoạn đứt gãy nào đó.
- Trong nghiên cứu của chúng tôi ở đây có sử dụng các phương Do trạng thái ứng suất kiến tạo trên các bể Bắc pháp tính magnitude cực đại từ diện tích mặt đứt Bộ, sông Hồng, Nam Hải Nam, Phú Khánh, Cửu gãy của Well-Coppersmith Wyss Long và Nam Côn Sơn là trạng thái ứng suất trượt Woodward-Clyde và tính bằng nên không có nguồn sinh ra động đất gây từ Moment động đất.
- hoàn toàn các trận động đất có cơ cấu chấn tiêu Quá trình tính toán là quá trình lặp.
- Bước khởi xiết ép nên chỉ duy nhất có đới hút chìm Manila, đầu ước lượng biên độ chuyển dịch cực đại dựa trong đó có đứt gãy F4 có khả năng phát sinh động trên kết quả đánh giá động đất cực đại bằng các đất gây sóng thần lớn nhất trên Biển Đông.
- Chúng phương pháp khác nhau để xác định moment động tôi xét trường hợp xấu nhất là động đất xảy ra trên đất, sau khi lấy trung bình trọng số và sai số chuẩn toàn bộ F4 và độ sâu chấn tiêu là 15km.
- Độ do động đất liên quan với núi lửa, theo dải đứt gãy sâu ngập lụt lớn nhất 4-5m xảy ra một số vùng ở 110.
- Tràn dầu tự nhiên số đứt gãy trẻ cắt qua tầng Pliocen - Đệ Tứ làm phá vỡ tầng chắn cũng ảnh hưởng tới hiện tượng tràn Trên cơ sở phân tích viễn thám, quan sát địa dầu tự nhiên.
- Trên bản đồ thể hiện các đứt gãy trẻ, các cấu trúc chứa dầu và khí đã phát hiện, các điểm phát hiện có cột thoát khí trên mặt cắt địa chấn và các biểu hiện dầu tại các vết lộ trên đất liền 6.
- Kết luận tốc biến dạng khá nhỏ, điều này càng khẳng định nguy cơ động đất sóng thần lớn nhất trên Biển Đông Mặc dù mới chỉ qua 4 kỳ đo năm là đứt gãy ứng với trũng Manilla - Philippin.
- Dấu những nét cơ bản về chuyển dịch kiến tạo hiện đại hiệu hoạt động của đứt gãy rìa tây Biển Đông không trên Biển Đông đã được xác định với vận tốc đóng rõ ràng, nếu có thì vận tốc chuyển dịch rất nhỏ.
- Trên cơ sở nghiên cứu đứt gãy trẻ Pliocen- Đệ Hoạt động xiết ép theo phương á vỹ tuyến ở khu Tứ, chuyển động kiến tạo hiện đại và trường ứng vực bắc Biển Đông sẽ cản trở chuyển dịch của các suất kiến tạo hiện đại có thể thấy trên các bể trầm đứt gãy thuận có phương á kinh tuyến và đứt gãy tích trên thềm lục địa Việt Nam không phát sinh trượt bằng phương tây bắc - đông nam.
- Vai trò của động đất vượt quá magnitude 6,4 và động đất lớn đụng độ giữa mảng Ấn - Úc đối với mảng Âu - Á nhất xảy ra ở đoạn đứt gãy F4 của đới hút chìm đóng vai trò chủ đạo đối với biến dạng của Biển Manila có magnitude 8,4 có thể gây ra sóng thần Đông.
- Hướng chuyển dịch thay đổi từ chuyển dịch có độ cao cực đại 2m và độ sâu ngập lụt 4-5m ở theo hướng đông đông nam ở phần phía bắc Biển một số vùng thuộc Quảng Ngãi, Đà Nẵng.
- đứt gãy trẻ cắt qua tầng Pliocen - Đệ Tứ làm phá Nakaegawa.
- Meertens, 2002: Motion and rigidity of Tuấn Anh, Hoàng Quang Vinh, 2008: Ứng dụng the Pacific Plate and implications for plate boundary công nghệ GPS trong việc xác định chuyển dịch deformation, J.
- Spakman, 2007: A decade of GPS Tiến và Nguyễn Tuấn Anh, 2009: Kết quả ban đầu in Southeast Asia: Resolving Sundaland motion về tốc độ chuyển dịch kiến tạo hiện đại trên Biển and boundaries, J