« Home « Kết quả tìm kiếm

Thực trạng và các giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của học sinh - sinh viên bằng hình thức trắc nghiệm khách quan tại trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình


Tóm tắt Xem thử

- Lý do chọn đề tài Đánh giá kết quả học tập là một khâu quan trọng trong quá trình đào tạo, là một trong những yếu tố quyết định chất lượng đào tạo.
- Việc đánh giá có chất lượng là một vấn đề quan tâm hàng đầu của các nhà quản lý giáo dục ở nước ta hiện nay.
- Từ năm 1994, Bộ giáo dục và Đào tạo chủ trương đổi mới kiểm tra đánh giá kết quả học tập bằng hình thức trắc nghiệm nhằm nâng cao chất lượng đánh giá.
- Hiện nay nhiều trường đại học, cao đẳng, trung học chuyên nghiệp đã triển khai áp dụng việc đánh giá kết quả học tập của sinh viên bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.
- Việc đánh giá bằng hình thức trắc nghiệm ở các trường đại học, cao đẳng và Trung cấp hiện nay chưa được tiến hành một cách bài bản: Việc soạn thảo câu hỏi trắc nghiệm theo qui trình chuẩn hoá còn là một vấn đề mà nhiều trường chưa làm được, khâu tổ chức thực hiện còn nhiều vấn đề.
- Từ nhiều năm nay, Trường Cao đẳng y tế Ninh Bình đã thực hiện việc đánh giá kết quả học tập bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.
- Các môn học đã được áp dụng thi hết môn bằng câu hỏi trắc nghiệm.
- Xuất phát từ những lý do trên tôi chọn đề tài: Thực trạng và các giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của Học sinh – Sinh viên bằng hình thức trắc nghiệm khách quan tại trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình.
- Mục đích nghiên cứu Luận văn nghiên cứu thực trạng đánh giá KQHT của HS-SV bằng hình thức TNKQ và các giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá KQHT 3.
- Đối tượng nghiên cứu - Thực trạng KTĐG KQHT của trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình - Một số giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của HS – SV bằng hình thức TNKQ tại trường CĐ Y tế Ninh Bình 24.
- Giả thuyết khoa học Nếu các giải pháp đề xuất được áp dụng thì có thể nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của HS - SV bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.
- Phạm vi nghiên cứu Đề tài này chỉ tiến hành nghiên cứu quá trình kiểm tra đánh giá kết quả học tập của HS - SV tại Bộ môn Khoa học cơ bản trường CĐ y tế Ninh Bình.
- Các phương pháp nghiên cứu thực tiễn - Phương pháp quan sát: Quan sát cách tổ chức thực hiện việc kiểm tra đánh giá thường xuyên, định kỳ, hết môn học.
- Phương pháp điều tra: Sử dụng các bộ phiếu điều tra đối với học sinh, giáo viên và cán bộ quản lý để phân tích thực trạng công tác kiểm tra – đánh giá kết quả học tập của sinh viên bằng hình thức trắc nghiệm khách quan.
- Nội dung: Gồm 3 chương - Chương 1: Cơ sở lý luận của đề tài - Chương 2: Thực trạng công tác KTĐG KQHT tại Bộ môn Khoa học cơ bản trường CĐ Y tế Ninh Bình - Chương 3: Giải pháp nâng cao chất lượng đánh giá kết quả học tập của HS – SV bằng hình thức trắc nghiệm khách quan tại trường CĐ Y tế Ninh Bình 3Kết luận và những kiến nghị Những kiến nghị Tài liệu tham khảo Phụ lục 4CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN CỦA ĐỀ TÀI 1.1.
- Trên thế giới Trắc nghiệm (kiểm tra, đánh giá) được hình thành khá sớm cùng với việc xuất hiện của xã hội loài người.
- Việc chọn người “phối ngẫu” trong các bộ lạc nguyên thuỷ có thể là loại kiểm tra, đánh giá sớm nhất.
- Theo Trần Trọng Thuỷ từ những năm 2000 trước Công nguyên (Tr CN), người Trung Hoa đã dùng trắc nghiệm trí tuệ để chọn người hầu, thê thiếp.
- Trong thực tế cuộc sống, những trắc nghiệm trước khi dùng được sử dụng phổ biến trong các thời đại ở Trung quốc cũng như các nước châu Á trong đó có Việt Nam.
- Những phép thử khi các sứ thần Việt Nam đi triều cống ở các vương triều Trung Quốc là tiêu biểu cho các phép trắc nghiệm tâm lý.
- (ngày nay gọi là trắc nghiệm thực hành) và khi có chữ viết thì xuất hiện trắc nghiệm viết.
- Trong trường học Việt Nam và Trung Quốc thời xưa, bài viết được đánh giá qua các buổi bình văn, hoặc do quan trường chấm bài, thậm chí các kỳ thi quan trọng Vua cũng tham gia chấm bài.
- Qua các cuộc kiểm tra, người ta thường đánh giá và chọn ra người thắng cuộc.
- Trắc nghiệm bằng lời nói, việc làm, hành động.
- nếu được xem là phép thử hay TNKQ, thì TNKQ có thể ra đời sớm hơn trắc nghiệm khác.
- Nhưng cái thiếu của những loại trắc nghiệm lúc đó chính là có một công cụ đo chính xác.
- Việc kiểm tra thường đi kèm với đánh giá xếp loại và tuyển chọn học sinh.
- Theo Vũ Cao Đàm: “Trắc nghiệm là phương pháp bán thực nghiệm được sử dụng để đánh giá chất lượng của đối tượng khảo sát với một chương trình đòi hỏi đối tượng thực hiện, nhưng không gây biến đổi bất cứ một thông số nào trên đối tượng.
- Trắc nghiệm là phương pháp đo lường khách quan những phản ứng của sự vật được trắc nghiệm, biểu hiện tâm lý và mức độ nhận thức của một người hoặc một nhóm người được trắc nghiệm.
- Công cụ được sử dụng trong nghiên cứu bằng trắc nghiệm có thể là ngôn ngữ hoặc công cụ phi ngôn ngữ.
- Nói trắc nghiệm là phương pháp bán thực nghiệm là vì, sự vật không bị bất cứ tác động nào làm biến đổi trạng thái, mà chỉ có các tình huống của môi trường hoạt động sự vật bị thay đổi.
- Trắc nghiệm được sử dụng trong nhiều lĩnh vực nghiên cứu.
- Chẳng hạn, trong lĩnh vực công nghệ, người ta có thể làm trắc nghiệm như thử nghiệm đánh hỏng vật liệu.
- Ở phương Tây, trắc nghiệm khách quan (sau đây gọi là trắc nghiệm) theo Questin Stodola, Kamer Stordahl.
- các phương pháp đo lường và trắc nghiệm đầu tiên được tiến hành vào thế kỷ XVII – XVIII ở khoa vật lý- Tâm lý và sau đó lan dần sang ngành động vật học.
- Nhằm chọn lọc những người có thể làm cha mẹ tốt nhất, Galton đã triển khai các trắc nghiệm khách quan để đo các đặc diểm con người liên quan đến trí tuệ.
- James Mackeen Cattell (người Mỹ, học tập ở châu Âu) mang nhiều ý tưởng của Galton cho rằng các chức năng trí tuệ đo được bằng trắc nghiệm.
- Đến năm 1904, Alfred Binet, nhà Tâm lý học người Pháp, trong quá trình nghiên cứu trẻ em mắc bệnh tâm thần, đã xây dựng một số bài trắc nghiệm của Alfred Binet ra tiếng Anh, từ đó trắc nghiệm trí thông minh được gọi là trắc nghiệm Stanford- Binet.
- Bài trắc nghiệm này được sửa chữa một số lần vào các năm và những năm gần đây.
- Thorm Dike là người đầu tiên đã dùng trắc nghiệm khách quan (TNKQ) như là phương pháp “khách quan và nhanh chóng” để đo trình độ học sinh, bắt đầu với môn Số học và sau đó là một số môn khác.
- Hiện nay có hàng trăm triệu bài trắc nghiệm với mục đích khác nhau, có nhiều công ty trắc nghiệm với mục dích kinh doanh đem lại lợi nhuận hàng triệu USD mỗi năm.
- Có rất nhiều nghiên cứu về kỹ thuật đo lường trong giáo dục bằng TNKQ như nghiên cứu kỹ thuật câu hỏi TNKQ, ưu và nhược điểm của chúng, đánh giá chính xác kết quả học tập kết hợp xử lý trên máy vi tính các số liệu về xây dựng và sử dụng nhanh chóng TNKQ, nghiên cứu tiêu chuẩn dùng để phân loại nhóm người của các tác giả: Lindquist E.F.
- nghiên cứu ưu diểm của trắc nghiệm tiêu chí, nguyên tắc, thủ tục, kỹ thuật xây dựng loại câu hỏi trắc nghiệm này, tính toán độ giá trị, độ tin cậy của câu trắc nghiệm, bài trắc nghiệm, giải thích các điểm số của bài trắc nghiệm.
- Nhiều công trình nghiên cứu đo lường, đánh giá kết quả học tập đã được công bố: Erwin T.D., Hopkins K.D., Stanley K.D., Mehrens W.A., Lehmann I.J.
- các tác giả này đi sâu vào phương pháp đo lường từng lĩnh vực của mục tiêu giáo dục, phân 7biệt rõ từng loại trắc nghiệm, xác định nguyên tắc xây dựng và sử dụng từng loại trắc nghiệm.
- Osterlind nghiên cứu về xây dựng câu trắc nghiệm.
- Các bài đánh giá khách quan của họ được sử dụng rộng rãi trên thế giới và trong kiểm tra (KT) trình độ tiếng Anh.
- Đã có nhiều công trình nghiên cứu quy trình xây dựng và lựa chọn cách sử dụng câu hỏi trắc nghiệm (CHTN) như thế nào để đảm bảo hiệu quả cao cho việc đo lường và đánh giá tuỳ theo yếu cầu của từng môn học và từng mục đích đánh giá.
- Tuyển tập trắc nghiệm sử dụng trước khi vào học giáo trình (Pre-test) của nhiều tác giả do Douglas Sawyer chủ biên về tế bào học, đề cập đến các lĩnh vực như cấu trúc và chức năng của màng tế bào, sự vận chuyển các chất qua màng.
- Nhưng do sử dụng TNKQ mà không thấy được nhược điểm của chúng, nên ngày 4/9/1936 Ban chấp hành trung ương Đảng Cộng sản Liên Xô đã phê phán việc sử dụng trắc nghiệm.
- Mãi đến năm 1963, Nhà nước Liên xô mới cho phép sử dụng TNKQ trong đánh giá kết quả học tập.
- Như vậy, dạng câu hỏi và bài tập được sử dụng nhiều cho kiểm tra, đánh giá kết quả học tập trong dạy học chủ yếu là câu hỏi tự luận và TNKQ.
- Sau năn 1954, trắc nghiệm khách quan được sử dụng ở miền Nam.
- Năm 1963, “Trắc nghiệm Vạn vật lớp 12” của Lê Quang Nghĩa được xuất bản.
- Năm 1969, Dương Thiệu Tống đã giảng dạy “Trắc nghiệm thành quả học tập” cho các lớp Cao học và Tiến sĩ Giáo dục học tại ĐHSP Sài Gòn.
- Năm ông đã đề cập nhiều đến TNKQ trong tài liệu “Đánh giá trong giáo dục”, “Tài liệu bồi dưỡng sách giáo khoa lớp 12 cải cách giáo dục môn Sinh học”.
- 10 Năm 1990, Bộ Y tế với sự giúp đỡ của đề án “Hỗ trợ hệ thống đào tạo” của chương trình hợp tác Việt Nam - Thụy Điền (03/SIDA) đã mở khoá tập huấn cho toàn bộ giảng viên các trường y tế, đã xây dựng được bộ công cụ đánh giá bằng TNKQ các chuyên khoa, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo ở các trường y dược, Nguyễn Quang Quyền và cộng sự ở Bộ môn Giải phẫu học trường Đại học Y dược Thành phố Hồ Chí Minh đã xuất bản cuốn “Mục tiêu bài giảng và câu hỏi trắc nghiệm Giải phẫu học”.
- Kiểm tra Trong quá trình dạy học, kiểm tra đánh giá kết quả học tập là một khâu quan trọng nhằm xác định thành tích học tập và mức độ chiếm lĩnh tri thức, kĩ năng, thái độ học tập của người học.
- Như vậy kiểm tra nhằm đánh giá một quá trình hoạt động sư phạm.
- Đánh giá Có nhiều định nghĩa về đánh giá trong giáo dục.
- 11Theo Becby C.E: Đánh giá là sự thu thập và giải lý một cách có hệ thống những bằng chứng dẫn tới sự phán xét về giá trị theo quan điểm hành động.
- quan niệm: Đánh giá là đưa ra phán quyết về giá trị của một sự kiện, nó bao hàm việc htu thập thông tin sử dụng trong việc xác định giá trị của một chương trình, một sản phẩm, một tiến trình, một mục tiêu hay tiềm năng ứng dụng của một cách thức đưa ra nhằm đạt tới một mục đích nhất định.
- Glonlund N.E.: Đánh giá là một tiến trình có hệ thống của việc thu thập phân tích và giải thích thông tin nhằm xác định mức độ mà học sinh đã đạt được mục tiêu giảng dạy.
- cho rằng: Đánh giá là sự xác định trình độ lĩnh hội tri thức, kỹ năng, kỹ xảo của học sinh trong sự tương ứng với yêu cầu của chương trình học.
- Theo Trần Bá Hoành, đánh giá là: “Quá trình hình thành những nhận định, phán đoán kết quả công việc dựa vào sự phân tích những thông tin thu được, đối chiếu với những mục tiêu, tiêu chuẩn đề ra, nhằm đề xuất những quyết định thích hợp để cải tiến thực trạng, nâng cao chất lượng và hiệu quả công việc”.
- Đo lường là một phương thức dùng bài trắc nghiệm trong một dung sai để đạt một mức đo định lượng và tương đối khách quan về một hay nhiều tính chất nào đó.
- Những mức độ đạt được, những thành quả khác nhau, biểu thị bằng điểm số chẳng hạn, sẽ giúp GV đo lường và đánh giá mức độ thành công của công việc giảng dạy, học tập.
- Nếu có sẵn kết quả thi một bài trắc nghiệm tương đương từ trước, GV có thể so sánh điểm của hai kỳ thi để ướcc định mức độ tiến bộ của HS.
- Một đánh giá có tính chẩn đoán không chỉ hướng đến đo lường mà phải có chức năng dự đoán và vạch hướng khắc phục.
- Đánh giá kết quả học tập của HS - SV 1.2.5.1.
- Đánh giá kết quả học tập của HS - SV Đánh giá ở các trường CĐ, trung học chuyên nghiệp bao gồm đánh giá tiến trình và đánh giá tổng kết (kết quả).
- Đánh giá tiến trình: Gồm đánh giá thường xuyên và đánh giá định kỳ.
- Đánh giá thường xuyên bao gồm KTĐG đầu giờ và kiểm tra 15 phút.
- Phiếu chấm là bảng có sẵn đã đục lỗ, GV nhanh chóng có kết quả của một số lớn học sinh, để nắm được nhiều thông tin ngược cho việc dạy học của mình, đồng thời học sinh cũng nhận ra kiến thức hỏng của mình để bổ sung kịp thời Đánh giá này được sử dụng trong quá trình dạy học để nhận được các phản hồi từ học viên, xem xét mức độ thành công của việc dạy và học, chỉ ra trở ngại và tìm cách khắc phục.
- Đánh giá định kỳ: Hình thức KTĐG này thường được thực hiện sau một chương lớn, một phần của chương trình hay một học kỳ.
- Nó giúp học sinh và giáo viên nhìn lại kết quả dạy và học sau những kỳ hạn nhất định, đánh giá trình độ học sinh sau khi đã học một khối lượng lớn kiến thức, kỹ năng, kỹ xảo, củng cố mở rộng những điều đã học, đạt cơ sở tiếp tục học sang phần mới.
- Đánh giá tổng kết: Thông thường đánh giá tổng kết thường được gọi là “thi”.
- Hình thức đánh giá này thực hiện vào cuối mỗi giáo trình, cuối năm học, nhằm đánh giá kết quả chung, củng cố mở rộng chương trình toàn năm của mỗi môn học, chuẩn bị điều kiện để tiếp tục học chương trình của năm học sau.
- Sử dụng TNKQ trong đánh giá kết quả học tập của học sinh 1.2.6.1.
- Khái niệm trắc nghiệm khách quan Trắc nghiệm (test) trong tiếng Anh nghĩa là “thử” hay “phép thử”, ‘sát hạch”.
- Theo Dương Thiệu Tống: Trắc nghiệm là một dụng cụ hay phương thức - hệ thống nhằm đo lường một mẫu các động thái để trả lới câu hỏi: Thành tích của các cá nhân như thế nào khi so sánh với những người khác hay so sánh với một lĩnh vực các nhiệm vụ dự kiến.
- Gronlund N.E.: Trắc nghiệm là một công cụ hay một quy trình có hệ thống nhằm đo lường mức độ mà một cá nhân đã làm được trong một lĩnh vực cụ thể.
- Các dạng câu hỏi trắc nghiệm khách quan và kỹ thuật soạn thảo 14 Có thể phân chia các phương pháp trắc nghiệm ra làm 3 loại: loại quan sát, loại vấn đáp và loại viết.
- Loại vấn đáp: Có tác dụng tốt khi nêu các câu hỏi phát sinh trong một tình huống cần kiểm tra.
- Trắc nghiệm vấn đáp thường được dùng khi tương tác giữa người chấm và người học là quan trọng, chẳng hạn cần xác định thái độ phản ứng khi phỏng vấn.
- Trắc nghiệm viết được chia làm 2 nhóm chính: Nhóm các câu hỏi trắc nghiệm buộc trả lời theo dạng mở, thí sinh phải tự trình bày ý kiến trong một bài viết dài để giải quyết vấn đề mà câu hỏi nêu ra.
- Người ta gọi trắc nghiệm theo kiểu này là kiểu tự luận.
- Nhóm các câu trắc nghiệm mà trong đó đề thi thường gồm rất nhiều câu hỏi, mỗi câu nêu ra một vấn đề cùng với những thông tin cần thiết sao cho thí sinh chỉ phải trả lời vắn tắt cho từng câu.
- Người ta thường gọi nhóm phương pháp này là trắc nghiệm khách quan.
- Trong trắc nghiệm khách quan có thể phân chia ra nhiều câu hỏi khác nhau.
- Ưu, nhược điểm của câu hỏi mở ngắn • Ưu điểm.
- Là dạng câu hỏi có câu trả lời ngắn và nhanh nên có thể hỏi trên diện rộng của chương trình, do đó làm tăng giá trị.
- Ưu nhược điểm của câu trắc nghiệm đúng - sai.
- Là dạng câu hỏi trả lời nhanh nên có thể hỏi trên diện rộng của chương trình.
- Nếu được viết đúng cách, loại câu hỏi này sẽ kiểm tra được nhiều khía cạnh liên quan đến nhau của một quá trình.
- Nếu số phần tử ở câu hỏi và câu trả lời khác nhau, yếu tố may rủi càng giảm đi nhiều.
- Có thể dùng loại trắc nghiệm này để đo các mức trí năng khác nhau, đặc biệt là để đánh giá khả năng nhận biết các hệ thức, hay lập những mối tương quan.
- Loại câu hỏi có nhiều câu trả lời để chọn.
- Ưu nhược điểm của câu hỏi lựa chọn đa phương án.
- Như vậy câu hỏi chọn lựa đa phương án có thể kiểm tra được kiến thức ở mức cao hơn

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt