« Home « Kết quả tìm kiếm

SGK - Tiếng Việt Lớp 1 - Ý kiến


Tóm tắt Xem thử

- NỘI DUNG SÁCH GIÁO KHOATIẾNG VIỆT LỚP 1 CỦA CÁNH DIỀUĐỌC NHANH, PHÂN TÍCH LẸ & KHUYẾN NGHỊ THỬThực hiện: Vũ Thái Hà, Một người quan tâm đến vấn đề và biết đọc tiếng Việt.Phi lộ:Chúng tôi thực hiện việc đọc, phân tích và khuyến nghị này hoàn toàn vì mục đích cá nhân,là muốn hiểu rõ hơn vấn đề, để thỏa mãn sự tò mò của bản thân, ngoài ra không có mục đíchgì khác.
- Việc chia sẻ nội dung này cũng là việc hoàn toàn tự nguyện và nếu có chủ đích thìchủ đích đó chỉ là giúp người đọc nó giải tỏa bớt thắc mắc của họ.
- Khi cá nhân hay tổ chứcnào sử dụng nội dung tài liệu này cho bất cứ việc gì thì trách nhiệm phát sinh sẽ hoàn toànthuộc về cá nhân hay tổ chức đó.Nội dungI.
- PHÂN TÍCH, NHẬN XÉT VỀ PHƯƠNG CHÂM BIÊN SOẠN THÔNG QUA TLTH.
- NHẬN XÉT TỔNG QUAN VỀ SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT LỚP 1, TẬP 1.
- PHÂN TÍCH CÁC VẤN ĐỀ CỤ THỂ TRONG SÁCH GIÁO KHOA TIẾNG VIỆT LỚP 1, TẬP 1.
- Tư liệu và Nguyên tắcChúng tôi sử dụng các tài liệu sau đây.
- Tiếng Việt 1 – Tập 1 – Sách in § Tiếng Việt 1 – Tập 2 – Sách in § Vở bài tập Tiếng Việt 1 – Tập 1 – Sách in § Vở bài tập Tiếng Việt 1 – Tập 2 – Sách in § Tài liệu tập huấn Giáo viên sử dụng sách giáo khoa lớp 1 “Cánh Diều.
- Môn Tiếng Việt – Sách điện tử công bố trên website của “Cánh Diều”Trong lúc lập tài liệu này, chúng tôi chỉ dẫn lại nội dung của 2 văn bản sau.
- Tiếng Việt 1 – Tập 1 – Sách in: gọi tắt là “TV1.1.
- Tài liệu tập huấn Giáo viên sử dụng sách giáo khoa lớp 1 “Cánh Diều.
- Môn Tiếng Việt: gọi tắt là “TLTH”Chúng tôi chỉ sử dụng trích dẫn từ TV1.1 vì nhận thấy các vấn đề cần quan tâm đã bộc lộ hếtqua tập sách này, không cần dẫn chứng xa hơn.II.
- Phân tích, Nhận xét về phương châm biên soạn thông qua TLTHTrong TLTH, Ban Biên soạn (BBS) đã nói khá đầy đủ các quan điểm và yêu cầu đối với việcbiên soạn sách Tiếng 1 Lớp 1, do đó chúng tôi sử dụng chính ccá nội dung này để tìm hiểu.Dưới đây là các trích dẫn mà chúng tôi cho là quan trọng nhất, có ý nghĩa lớn đối với côngtác biên soạn và nội dung sách.
- ngân bên dưới từng trích dẫn là các nhận xét và ý kiến củachúng tôi.1.
- Trích dẫn 1 – tr.7:“Dùng từ khóa để giúp HS làm quen với âm, vần học trong bài là một cách làm quen thuộctrong sách dạy “vỡ lòng” từ trước tới nay.
- SGK Tiếng Việt 1 không áp dụngcách dạy này vì không phù hợp với nguyên tắc tiết kiệm trong dạy học, đồng thời không đạthiệu quả vì hầu hết từ ngữ trong các “câu khóa” HS không đọc được.”1.
- Quan điểm dùng “từ khóa” thay cho việc “dùng cả một câu” (hay là “câu khóa”) là quanđiểm mới và hợp lý, mà mục đích là không gây bối rối cho học sinh khi bắt các em phải gặpcác từ quá khó về chính tả hay phát âm ở vào giai đoạn học tập mà các em chưa thể và chưacần đạt đến cấp độ nhận thức ở độ khó như vậy.2.
- Việc áp dụng quan điểm này dẫn đến một khó khăn lớn của BBS: Không thể tận dụng cáctư liệu có sẵn, chẳng hạn trích dẫn thẳng từ các tác phẩm văn học, mà phải chủ động biênsoạn, hay “kể lại” các nội dung sao cho phù hợp với yêu cầu minh họa của “từ khóa”.
- Đây làkhó khăn mà BBS đã không thể vượt qua: Các đoạn văn (chuyện kể) hầu hết bị gò ép,kiểu “cưỡng từ đoạt ý”, dẫn đến một loạt các ví dụ trong sách xa rời ngôn ngữ và ngữcảnh tự nhiên, thậm chí gây phản cảm, như sẽ được chỉ ra trong nội dung phần tiếptheo.2.
- Trích dẫn 2 – tr.9:“Trong SGK Tiếng Việt 1 năm 2002, phần Học vần không có văn bản nào dài đến 30 tiếng.Đối chiếu với yêu cầu cần đạt quy định trong Chương trình môn Ngữ văn 2018 thì độ dài vănbản đọc trong giai đoạn Học vần phải tăng thêm mới bảo đảm cuối năm đọc được những vănbản có độ dài từ 90 đến 130 chữ (tiếng).
- Trong SGK Tiếng Việt 1, độ dài của văn bản đượcđược tăng dần, từ trên dưới 10 tiếng, trên dưới 20 tiếng, đến trên dưới 30 tiếng… để cuối giaiđoạn Học vần (tuần 26), văn bản đạt độ dài khoảng 70-75 tiếng (cả tên bài).”Yêu cầu đối với khả năng đọc văn bản là khá cao cho học sinh lớp 1.
- Tất nhiên đây là yêu cầucủa Bộ.
- BBS cũng đã cho thấy ý đồ của mình khi tăng dần độ khó của các ví dụ và bài đọc;hợp lý.3.
- Trích dẫn 3 – tr.12:“Trong SGK Tiếng Việt tiểu học nói chung, SGK Tiếng Việt 1 nói riêng có 2 loại bài tậpchính tả:- Bài tập chính tả âm, vần: là bài tập điền chữ, điền vần vào chỗ trống nhằm ghi nhớ quy tắcviết (VD, quy tắc viết các âm /k/, /g/, /ng/ trước i, ê, e và trước các âm chính còn lại) hoặckhắc phục những lỗi chính tả thường gặp do ảnh hưởng của cách phát âm địa phương (VD,lẫn lộn các chữ l/n, tr/ch, các vần an/ang, ac/at, các dấu hỏi/ngã.
- Theo Chương trình mônNgữ văn 2018, SGK Tiếng Việt 1 chỉ có các bài tập phân biệt c và k, g và gh, ng và ngh;chưa đòi hỏi HS làm các bài tập khắc phục lỗi chính tả do ảnh hưởng của cách phát âm địaphương.- Bài tập chính tả đoạn, bài: là bài tập điền dấu câu thích hợp vào chỗ trống hoặc tập chép(nhìn viết), nghe viết các đoạn văn, bài văn ngắn”Các bài tập phân biệt c và k, g và gh, ng và ngh là khá khó đối với học sinh lớp 1 nêu dạy cácem theo hướng đặt ra các quy tắc.
- Trích dẫn 4 – tr.19:“Toàn bộ phần Luyện tập tổng hợp có 8 bài Tự đọc sách báo, mỗi bài có một mục tiêu riêng,cụ thể như sau: (1) Làm quen với việc đọc sách báo.
- (5) Đọc sách về kiến thức, kĩ năng sống.
- (7) Đọc sách báo ở thưviện.
- (8) Củng cố kĩ năng đọc sách báo.
- Bên cạnh mục tiêu chung, mỗi bài có một mục tiêuriêng, thể hiện ở tên bài.”Có lẽ chỉ nên đặt mục tiêu với học sinh lớp 1 là “Làm quen với việc đọc ngoài việc học chữtrên lớp”.
- Tức là các em có ý thức về việc có thể tìm thêm thông tin từ các nguồn khác vẫnthấy trong nhà hay ở trường, ngoài sách giáo khoa và bài giảng của giáo viên, là được.Đặt thêm các yêu cầu chi tiết như 8 mục trên đây thì khó quá.
- Trích dẫn 5 – tr.20:“c) Hoạt động ứng dụng: Nhắc HS chia sẻ với người thân về quyển sách, bài báo các em đãđọc.
- thực hành đọc sách báo ở nhà.
- Khi dạy kiểu bài này, GV cần lưu ý:- Đây là kiểu bài tự học cho nên GV cần rèn luyện cho HS chủ động trong toàn bộ các hoạtđộng: từ việc chuẩn bị sách báo mang đến lớp, giữ trật tự, chăm chú đọc sách, chia sẻ nộidung đọc với bạn, lựa chọn sách, trả sách ở thư viện,… GV cần bảo đảm không khí yên lặngvà thời lượng đủ cho HS đọc được ít nhất một câu chuyện hoặc một bài thơ, bài báo, bài văntrong giờ đọc sách báo.- Quyển sách, bài báo HS mang đến lớp có thể là quyển sách, bài báo các em yêu thích, đãđọc nhiều lần ở nhà, nếu tiếp tục đọc ở lớp thì điều đó không có tác dụng phát triển kĩ năngđọc, đồng thời có thể gây nhàm chán.
- Vì vậy, GV có thể đề nghị HS đổi sách cho bạn để đọccuốn sách, bài báo mới, tạo hứng thú cho HS, đồng thời có tác dụng tích cực hơn đối với việcphát triển kĩ năng đọc.- Một số gia đình có thể chưa có thói quen mua sách cho con.
- Lường trước khó khăn này, tácgiả SGK đã cung cấp sẵn ở mỗi bài Tự đọc sách báo một văn bản đọc với tư cách ví dụ.
- Vìvậy, nếu HS không có sách mang đến lớp, GV hướng dẫn HS đọc văn bản này.
- Đây là nhữngvăn bản được chọn lọc, có nội dung hấp dẫn và có tác dụng bồi dưỡng tư tưởng, tình cảm,kiến thức và kĩ năng sống cho các em.
- Vì vậy, kể cả trong trường hợp tất cả HS đều có sáchbáo mang đến lớp, GV vẫn nên giao cho 1 - 2 HS đọc những văn bản ấy, sau đó đọc lại chocả lớp nghe.- Tùy điều kiện của nhà trường và tình hình thời tiết, giờ Tự đọc sách báo có thể được thựchiện trong hoặc ngoài lớp học (ở sân trường, vườn hoa của trường,..).”Toàn bộ phần yêu cầu này mà đặt ra cho học sinh lớp 1 là quá căng!Có lẽ chỉ cần các em chơi được với quyển sách, tờ báo là đã tốt lắm rồi.
- được giới thiệu vớithư viện, biết đại ý là có thể tìm được sách báo trong thư viện thì đã trên cả xuất sắc.III.
- Nhận xét tổng quan về Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, Tập 1Trong quá trình đọc văn bản SGK liên quan, chúng tôi tự rút ra một số nhận xét chung về nộidung của sách như sau:1.
- Sách, và các sản phẩm đi kèm, có các ưu điểm nhất định, chẳng hạn Cánh Diều có cungcấp tư liệu online để giáo viên sử dụng: TLTH, video các câu chuyện kể… Hình thức và khổsách cũng phù hợp, dễ sử dụng.
- Ngoài ra không có ưu điểm nào nổi bật hẳn;2.
- Vấn đề lớn nhất của nội dung sách: Các đoạn văn (chuyện kể) hầu hết bị gò ép, kiểu“cưỡng từ đoạt ý”, dẫn đến một loạt các ví dụ trong sách xa rời ngôn ngữ và ngữ cảnh tựnhiên, thậm chí gây phản cảm.
- Như ở trên đã nói.Có thể bắt nguồn từ hai nguyên nhân chính:- NN1.
- BBS quá tuân thủ nguyên tắc do chính mình đặt ra, là sử dụng “từ khóa” thay cho“câu khóa”- NN2.
- BBS đặt quá nặng mục tiêu kiểu “phát triển kỹ năng mềm”, “phát triển trí tuệ cảmxúc”… dẫn đến lạm dụng các ví dụ minh họa mà nội dung không phù hợp với lứa tuổi họcsinh và môi trường giáo dục.3.
- Nội dung sách không dùng các tư liệu gốc, là các trích dẫn từ tác phẩm văn học, là nguồnđã định hình về giá trị và được tạo ra bởi các tác giả có thẩm quyền.
- Lý do có thể đến từ 2hướng: (1) Như đã nói ở ý 2 ngay trên đây, và (2) Chi phí bản quyền khi sử dụng tư liệu gốclà tác phẩm của các tác giả khác.IV.
- Phân tích các vấn đề cụ thể trong Sách giáo khoa Tiếng Việt lớp 1, Tập 1Dưới đây là các trích dẫn từ văn bản SGK gốc (dưới dạng hình ảnh chụp) và các nhận xét liên quan, trực tiếp trên từng trích dẫn.
- Ví dụ tương đường: Một người nước ngoài học tiếng Việt sẽ cần rất nhiều thời gian để phân biệt được sự khác nhau giữa2 ga – gà – gạ - gã – gả.
- Viết lại theo chính tả (in sẵn) Đây là ví dụ điển hình của việc cưỡng ép ví dụ minh họa để giữ nguyên tắc dùng “từ khóa” thay cho “câu khóa”, dẫn tới câu xa lạ và què cụt.
- Chú bê kêu be be Hết sức lưu ý rằng, học sinh không chỉ học “kỹ thuật” nhận mặt chữ, đánh vần… mà còn phải học cái hay cái đẹp của ngôn ngữ, thông qua nhạc tính của ng6n ngữ trong ngữ cảnh thật! Tương tự, dẫn đến một ví dụ hết sức ngớ ngẩn và tiêu cực: Vì nghe lời anh mà em gặp phải vấn đề!4 Ngoài ra, ‘lia lịa’ cũng là một từ khó cho học sinh lớp 1, ngày nhửng bài đầu tiên.
- Đây là ví dụ điển hình nữa của việc cưỡng ép “từ khóa”: do không muốn có các từ khó xuất hiện, ngoài từ mà BBS muốn đưa vào để minh họa, cho nên cách thể hiện các từ trước các hình minh học là sai!5 Làm gì có “dẻ”, mà phải là “hạt dẻ” Làm gì có “đá”, ma chỉ có “hòn đá”, “cục đá” Tương tự: “cọ.
- GV lớp 1 mà biết con le le mặt mũi ra sáo thì hẳn phải là thiên tài! Ở đây thậm chí còn vẽ con vật bé xíu và báo đấy là “le le gỗ” thì gái trị của việc dạy & học là dưới zero chứ7 không phải là bằng zero: GV giảng không xong, học sinh nghe xong cũng không có thêm thông tin gì mà chỉ thêm bối rối.
- Về nguyên tắc, nếu sách dạy có con le le thì sau đó học sinh có thể nhận ra nó khi gặp bên ngoài (ít nhất là xác suất cũng phải cỡ 70-80.
- Đây là một ví dụ hài hước khác! Chữ thì được nhưng chuyện thì chán quá.8 Nếu cứ tiếp tục ép như vậy, học sinh sẽ phát triển một kỹ năng không mong muốn: Làm ra các bài vè ép vần! Đây: Bà bế bé / Dì giã giò / Cỗ có cá Tiếp tục.
- Làm gì có câu nào là “Bé nhè.
- Làm gì có “Bé lơ mơ”9 Hết sức lưu ý, đây là chúng ta đang nói về bài học cho trẻ lớp 1, cho nên yêu cầu về độ trogn sáng, chuẩn mực phải là yêu cầu hàng đầu! Còn viết Facebook thì không sao! “pi a nô” là cái gì nhỉ? “đàn pi a nô” là cách diễn đạt duy nhất phù hợp ở đây!10 Sao không thể ghi ‘đàn’ vào? Chả nhẽ ‘đàn’ thì khó hơn ‘phê’, ‘pha’ ở thời điểm học này? Có ai viết và nói là “bé nhè” báo giờ đâu!11 Nếu “nhè” thì là nhè ra, không thèm nhia, nuốt nữa.
- Chỉ có thể là “Bé khóc nhè…”12 Chuyện dở hơi! Tiếp tục ép từ.13 Hậu quả là câu trở nên hài hước và vô nghĩa.
- chú ý: Giải thích cho học sinh lớp 1 nhé!15 Nếu muốn dạy về sự khiêm tốn thì cần phải thông minh hơn, chứ chuyện này chán quá! Đố GV nào giải thích được cho học sinh, cụ thể là học sinh lớp 1, hiểu được cái mỏ con cò như thế nào thì bị xem là “thô”!16 Xấu, cong, gãy, vẹo… thì may ra còn giải thích được! Như nếu nói là mấy chuyện trong sách này là thô thì chắc không ai phản đối! Chuyện rất vô duyên, không có bất cứ một chút ý nghĩa17 giáo dục nào! Trẻ em, nhất là trẻ lớp 1, không cần học cách lừa nhau để18 lấy thức ăn!19 Câu văn rất lúa! À không, rất thô! Tiếp tục, học sinh, nhất là học sinh lớp 1, không cần học cách lừa nhau!20 Đằng nào cũng phải học, nhưng lớn lên học sau, vội gì! Tiếp tục, học sinh, nhất là học sinh lớp 1, không cần học cách lừa nhau!21 Đằng nào cũng phải học, nhưng lớn lên học sau, vội gì!22 Rất khó nói về sự vô duyên của ví dụ kiểu này!V.
- Khuyến nghịTừ các phân tích và nhận xét trên đây, chúng tôi xin có mấy khuyến nghị:1.
- Đối với bộ sách đã phát hành, đang trên tay học sinh và giáo viên: Cần xem xét biên soạnbổ sung các hướng dẫn và đính chính lại các bài học

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt