« Home « Kết quả tìm kiếm

Đánh giá chất lượng đào tạo hệ Cao đẳng Điều dưỡng tại Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình


Tóm tắt Xem thử

- “Giáo dục Đào tạo là chìa khoá để mở cửa tiến vào tương lai”.
- Hiện nay, chất lượng đang được quan tâm nhiều trên thế giới.
- Chất lượng luôn là vấn đề quan trọng trong giáo dục đào tạo nói chung và trong các trường Đại học nói riêng.
- Việc nâng cao chất lượng đào tạo là nhiệm vụ quan trọng nhất của bất kỳ cơ sở đào tạo Đại học nào, là điều kiện kiên quyết cho sự tồn tại và phát triển của các đơn vị 2 đào tạo.
- Bên cạnh đó, xu thế toàn cầu hóa đang ngày càng phát triển cả về chiều rộng lẫn chiều sâu và xu thế toàn cầu hóa giáo dục Đại học cũng không nằm ngoài qui luật đó.
- Toàn cầu hóa giáo dục Đại học là đặc điểm nổi bật của tiến trình phát triển giáo dục Đại học thế kỉ XXI.
- Tất cả các nền Đại học không phân biệt là nền Đại học của nước phát triển đang phát triển đều nằm trong xu thế quốc tế hóa và toàn cầu hóa.
- Trước bối cảnh trên cần xây dựng một nền dịch vụ giáo dục Đại học Việt Nam bản lĩnh, truyền thống chủ động hội nhập với khu vực và thế giới.
- Khi giáo dục Đại học là một loại hình dịch vụ điều này đồng nghĩa các cơ sở giáo dục Đại học là đơn vị cung cấp dịch vụ.
- Đối tượng khách hàng chủ yếu của các cơ sở giáo dục Đại học là người học, cụ thể ở đây chính là sinh viên.
- Trong những năm gần đây, hệ thống giáo dục Đại học nước ta không ngừng phát triển cả về qui mô và chất lượng.
- Trong hệ thống Đại học công lập có, Đại học quốc gia, Đại học vùng, trường Đại học trọng điểm, Đại học đa ngành, chuyên ngành, Đại học mở, Đại học cộng Đồng.
- Trong mạng lưới Đại học ngoài công lập có Đại học bán công và dân lập.
- Nhiều trường Đại học đang được hiện đại hóa từ cơ sở vật chất kĩ thuật đến đội ngũ cán bộ, giảng viên, nội dung chương trình đào tạo,v.v.
- Tuy nhiên, nhìn nhận một cách khách quan, giáo dục Đại học nước ta đang đứng trước nhiều khó khăn, thách thức, ảnh hưởng trực tiếp đến chất lượng đào tạo và việc nâng cao chất lượng đào tạo.
- Thách thức gay gắt nhất đối với giáo dục hiện nay là giữa yêu cầu phát triển quy mô và các điều kiện đảm bảo chất lượng.
- Thực tế cho thấy, do điều kiện kinh tế còn khó khăn, ngân sách hàng năm đầu tư cho giáo dục nói chung và giáo dục Đại học nói riêng còn thấp không đủ trang trải cho những yêu cầu tối cần thiết về các 3 điều kiện đảm bảo như, trường sở, thư viện, phòng thí nghiệm, nhà xưởng thực hành.
- Chất lượng phải được đánh giá bởi chính những khách hàng đang sử dụng chứ không phải bởi các đơn vị.
- Như vậy, trong lĩnh vực giáo dục việc đánh giá chất lượng dịch vụ qua ý kiến của khách hàng, trong đó khách hàng trọng tâm - người học (sinh viên) đang trở lên hết sức cần thiết.
- Qua đó, các đơn vị đào tạo nói chung và các trường Đại học nói riêng có các nhìn nhận khách quan về những gì mình đã cung cấp, những gì mình kỳ vọng thay vì chỉ quan tâm đến đầu tư cơ sở vật chất, trình độ đầu vào - đầu ra và kết quả học tập của sinh viên và các yếu tố khác trong quá trình đào tạo.
- Tác giả đi đến thực hiện đề tài: “Đánh giá chất lượng đào tạo hệ Cao đẳng Điều dưỡng tại Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình” 2.
- Mục đích nghiên cứu Trên cơ sở nghiên cứu về lý luận và thực tiễn, phân tích đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo.
- Các bên có liên quan đến chất lượng đào tạo hệ Cao đẳng chuyên ngành Điều dưỡng tại trường và sử dụng sinh viên tốt nghiệp hệ Cao đẳng Điều dưỡng của trường.
- Điều tra chất lượng từ cựu sinh viên đã tốt nghiệp.
- Điều tra chất lượng từ những đơn vị Y tế sử dụng lao động.
- Ýnghĩa khoa học và thực tiễn -Từ công tác đánh giá thực trạng chất lượng đào tạo của mình, đề xuất một số giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo của nhà trường trong thời gian tới với mục đích góp sức cùng với nhà trường, chuẩn bị các nội lực để nâng cấp thành Trường Đại học Điều dưỡng trong tương lai.
- Chương 1: Cơ sở lý luận về chất lượng giáo dục hệ Cao đẳng.
- Chương 2: Thực trạng chất lượng đào tạo của hệ Cao đẳng Điều dưỡng Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình.
- Chương 3: Giải pháp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo hệ Cao đẳng Điều dưỡng Trường Cao đẳng Y tế Ninh Bình.
- CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ CHẤT LƢỢNG GIÁO DỤC CAO ĐẲNG 1.1.
- Khái niệm về chất lƣợng giáo dục 1.1.1.
- Dưới đây là một số cách hiểu về khái niệm “chất lượng”.
- Vai trò của giáo dục và đào tạo - Giáo dục đóng góp vào sự phát triển kinh tế xã hội.
- Chất lƣợng của giáo dục Đại học 1.2.1.
- Một số tiếp cận về chất lượng giáo dục Đại học Cũng tương tự như khái niệm về “chất lượng”, trong giáo dục Đại học, đang được hiểu theo nhiều cách khác nhau.
- Họ đề cập đến năm khía cạnh của chất lượng GD ĐH.
- Chất lượng là sự vượt trội (hay sự xuất sắc), là sự hoàn hảo (kết quả hoàn thiện, không sai sót), là sự phù hợp với mục tiêu (đáp ứng nhu cầu của khách hàng), là sự đáng giá về đồng tiền (trên khía cạnh đáng giá để đầu tư), là sự chuyển đổi (sự chuyển đổi từ trạng thái này sang trạng thái khác).
- “Chất lượng là sự phù hợp với mục tiêu.
- Chất lượng được đánh giá bằng “đầu vào” Một số nước phương Tây có quan điểm cho rằng “chất lượng một trường Đại học phụ thuộc vào chất lượng hay số lượng đầu vào của trường đó”.
- Theo quan điểm này, một trường Đại học tuyển được sinh viên giỏi, có đội ngũ cán bộ giảng dạy uy tín, có nguồn tài chính cần thiết để trang bị các phòng thí nghiệm, giảng đường, các thiết bị tốt nhất được xem là sẽ có chất lượng cao.
- Quan điểm này đã bỏ qua sự tác động của quá trình đào tạo diễn ra rất đa dạng và liên tục trong một thời gian dài trong trường đại học 3 đến 6 năm.
- Thực tế theo cách đánh giá này quá trình đào tạo được xem là một “hộp đen”, chỉ dựa vào sự đánh giá “đầu vào” và phỏng đoán chất lượng “đầu ra”.
- Sẽ khó giải thích trường hợp một trường Đại học có nguồn lực “đầu vào” dồi dào nhưng chỉ có những hoạt động đào tạo hạn chế, hoặc ngược lại, một trường có nguồn lực khiêm tốn, nhưng đã cung cấp cho sinh viên một chương trình đào tạo hiệu quả.
- Chất lượng được đánh giá bằng “ đầu ra” Một quan điểm khác về chất lượng GD ĐH cho rằng “đầu ra” của GD ĐH có tầm quan trọng hơn nhiều so với “đầu vào” của quá trình đào tạo.
- Chất lượng được đánh giá bằng “giá trị gia tăng” Quan điểm này cho rằng một trường Đại học có tác động tích cực tới sinh viên khi nó tạo ra được sự khác biệt trong sự phát triển trí tuệ và cá nhân của sinh viên.
- “Giá trị gia tăng” được xác định bằng giá trị của “đầu ra” trừ đi giá trị của 9 “đầu vào”, kết quả thu được mà trường Đại học đã đem lại cho sinh viên được đánh giá là CLGD ĐH.
- Thêm vào đó, các trường trong hệ thống GD ĐH rất đa dạng, không thể dùng một bộ công cụ đo duy nhất cho tất cả các trường Đại học.
- Vả lại, cho dù có thể thiết kế được bộ công cụ như vậy, giá trị gia tăng được xác định cũng sẽ không cung cấp thông tin gì cho chúng ta về sự cải tiến quá trình đào tạo trong từng trường Đại học.
- Chất lượng được đánh giá bằng “giá trị học thuật” Đây là quan điểm truyền thống của nhiều trường Đại học phương Tây, chủ yếu dựa vào sự đánh giá của các chuyên gia về năng lực học thuật của đội ngũ cán bộ giảng dạy trong từng trường trong quá trình thẩm định công nhận chất lượng đào tạo Đại học.
- Điều này có nghĩa là trường Đại học nào có đội ngũ giáo sư, tiến sĩ đông, có uy tín khoa học cao thì được xem là trường có chất lượng cao.
- Điểm yếu của cách tiếp cận này là ở chỗ, cho dù năng lực học thuật có thể được đánh giá một cách khách quan, thì cũng khó có thể đánh giá những cuộc cạnh tranh của các trường Đại học để nhận tài trợ cho các công trình nghiên cứu trong môi trường bị chính trị hóa.
- Chất lượng được đánh giá bằng “văn hoá tổ chức riêng” Quan điểm này dựa trên nguyên tắc các trường Đại học phải tạo ra được “Văn hóa tổ chức riêng” hỗ trợ cho quá trình cải tiến liên tục chất lượng.
- Vì vậy, một trường được đánh giá là có chất lượng khi nó có được “Văn hóa tổ chức riêng” với nét đặc trưng quan trọng là không ngừng nâng cao chất lượng đào tạo.
- Chất lượng được đánh giá bằng “kiểm toán” Quan điểm này về CLGD ĐH xem trọng quá trình bên trong trường Đại học và nguồn thông tin cung cấp cho việc ra quyết định.
- Nếu kiểm toán tài chính xem 10 xét các tổ chức có duy trì chế độ sổ sách tài chính hợp lí không, thì kiểm toán chất lượng quan tâm xem các trường Đại học có thu thập đủ thông tin phù hợp và những người ra quyết định có đủ thông tin cần thiết hay không, quá trình thực hiện các quyết định về chất lượng có hợp lí và hiệu quả không.
- Điểm yếu của các đánh giá này là sẽ khó lí giải những trường hợp khi một cơ sở Đại học có đầy đủ phương tiện thu thập thông tin, song vẫn có thể có những quyết định chưa phải là tối ưu.
- Định nghĩa của tổ chức đảm bảo giáo dục Đại học quốc tế Theo định nghĩa thứ nhất, cần có Bộ tiêu chí chuẩn cho GD ĐH về tất cả các lĩnh vực và việc kiểm định chất lượng một trường Đại học sẽ dựa vào Bộ tiêu chí chuẩn đó.
- Thực trạng chất lƣợng giáo dục Đại học và Cao đẳng ở Việt Nam (Nguồn: Tạp chí giáo dục Việt Nam) Nhiều vấn đề xuất hiện và tồn tại trong giáo dục Đại học Việt Nam.
- Vấn đề khiếm dụng và thất nghiệp trí thức lại càng trầm trọng ở Việt Nam khi cơ cấu tổ chức giáo dục Đại học và chương trình đào tạo lạc hậu không phù hợp cho tình trạng đổi mới kinh tế và xã hội.
- Tình hình này cũng tương tự ở Trung Quốc trong thập niên 1990, cho nên đối với những nhà cải cách Trung Quốc lúc đó thì khu vực giáo dục Đại học là thành trì cuối cùng của nền kinh tế kế hoạch.
- Bằng chứng của chất lượng thấp là sự cách biệt giữa khả năng chuyên môn và ngành nghề của những người tốt nghiệp Đại học với nhu cầu kỹ năng mới của thị trường.
- Phần lớn chương trình đào tạo, nội dung và phương pháp giảng dạy còn theo quán tính của thời kỳ kế hoạch tập trung quan liêu trong khi nền kinh tế thị trường càng ngày càng đòi hỏi ở những người tốt nghiệp Đại học những khả năng chuyên môn khác xa với những gì được đào tạo ở trường Đại học.
- Giáo dục Đại học Việt Nam mang tính đồng huyết rất cao, cho nên chương trình đào tạo và nội dung giảng dạy thường được sao đi chép lại giữa các trường Đại học và nhất là phải dựa vào chương trình khung của Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Quan điểm này sẽ là mối hại lớn cho giáo dục Đại học Việt Nam.
- Tốc độ mới là một yếu tố quan trọng của cải tổ giáo dục ở Việt Nam.
- Dưới đây là những nhược điểm lớn nhất của giáo dục hiện nay.
- Trong hơn hai mươi năm qua, giáo dục Đại học đã dần dần thực hiện những cải tổ về tài chính như phát triển nguồn thu từ học phí và các dịch vụ khoa 12 học kỹ thuật, cho phép mở các Đại học dân lập và tư thục.
- để huy động sức đóng góp tài chính của xã hội cho việc tăng qui mô đào tạo bậc Đại học.
- Vì thế cần phân tích để thấy rõ rằng cuộc khủng hoảng kép về số lượng và chất lượng của giáo dục Đại học nước ta kéo dài trong hơn hai thập kỷ qua 1.3.1.
- Nhược điểm thứ nhất Về tổ chức quản lý của hệ thống giáo dục Đại học là sự phân tán trách nhiệm quản lý cho quá nhiều bộ và nhiều tỉnh thành chủ quản.
- Việc chia cắt các nhiệm vụ quản lý nhà nước về giáo dục Đại học giữa Bộ Giáo dục và Đào tạo với các bộ ngành khác đã làm cho việc quản lý nhà nước đối với hệ thống giáo dục chồng chéo, phân tán, thiếu thống nhất.
- Vào cuối thập niên 1980, nhiều trường Đại học và Cao đẳng đã được chuyển dần từ nguyên tắc quản lý theo “sản phẩm đào tạo và sử dụng” trực thuộc các bộ chủ quản khác nhau sang nguyên tắc quản lý theo “qui trình công nghệ giáo dục” của một bộ duy nhất là Bộ Giáo dục và Đào tạo.
- Tuy nhiên hiện nay Bộ Giáo dục và Đào tạo chỉ có trách nhiệm quản lý trực tiếp khoảng 60 trường Đại học và Cao đẳng công lập trong số hơn 400 cơ sở giáo dục Đại học.
- Chính phủ chịu trách nhiệm về hai Đại học Quốc gia, 13 bộ ngành và các chính quyền tỉnh thành cùng tham gia quản lý khoảng 260 trường Đại học và Cao đẳng công lập, còn lại trên 80 cơ sở giáo dục Đại học ngoài công lập chịu sự quản lý của Bộ Giáo dục và Đào tạo cùng cơ quan chủ quản và chính quyền địa phương.
- Những vấn đề về tài chính và thẩm quyền quản trị đối với giáo dục Đại học bị chia cắt giữa nhiều bộ, nhiều tỉnh thành, nhiều cơ quan chủ quản, tất cả những điều này đã khiến cho việc thực hiện cải tổ giáo dục Đại học trở thành khó khăn.
- Nhược điểm thứ hai Về tổ chức quản lý của hệ thống giáo dục Đại học Việt Nam là sự tách rời giữa các trường Đại học với các cơ quan nghiên cứu khoa học.
- Do Việt Nam theo 13 mô hình Liên xô cũ nên các viện nghiên cứu hoàn toàn độc lập với các trường Đại học.
- Các trường Đại học chủ yếu tập trung vào việc giảng dạy mà ít quan tâm đến hoạt động nghiên cứu khoa học.
- Trong khi chỉ có 44 trường Đại học được phép đào tạo và cấp bằng tiến sĩ thì có đến 71 viện nghiên cứu được Đào tạo và cấp bằng tiến sĩ độc lập mà không cần cộng tác với trường Đại học.
- Theo thống kê trong ba năm học từ 2008 đến 2010, trong khi các trường Đại học có 3.518 nghiên cứu sinh tiến sĩ thì các viện nghiên cứu cũng có đến 2.325 nghiên cứu sinh tiến sĩ.
- Sự tách rời này làm cho những người làm khoa học ít được tham gia giảng dạy và giảng viên Đại học cũng bị hạn chế trong việc tham gia nghiên cứu khoa học, sinh viên cũng ít được tiếp cận những tri thức từ những nhà khoa học giỏi.
- Chính sự tách rời này làm cho trường Đại học chưa thực sự là trung tâm chất lượng về đào tạo và nghiên cứu khoa học.
- Sự tách rời giữa các viện nghiên cứu và các trường Đại học còn làm cho năng lực nghiên cứu khoa học của Việt Nam có vị trí quá thấp trên trường quốc tế.
- Việc bố trí xây dựng các trường Đại học và các viện nghiên cứu chịu ảnh hưởng nặng nề của hệ thống hành chính, nên việc tổ chức và hoạt động của các trường Đại học và các viên nghiên cứu theo nguyên tắc trực thuộc các bộ khác nhau, trực thuộc các tỉnh thành khác nhau.
- Nhược điểm thứ ba Về tổ chức quản lý của hệ thống Giáo dục Đại học là sự phân tán của quá nhiều trường Đại học và học viện theo nhiều chuyên ngành riêng rẽ với các chương trình đào tạo quá hẹp theo mô hình của Liên Xô cũ.
- Chính việc tổ chức quản lý các trường Đại học chuyên ngành có mục tiêu đào tạo nặng về kiến thức cụ thể theo những tiểu chuyên ngành rất hẹp mà người sinh viên không được trang bị một nền tảng vững chắc về Giáo dục tổng quát cần thiết cho việc tự học tập suốt đời và khả năng đáp ứng cao với môi trường làm việc thay đổi không ngừng trong tương lai.
- Tình hình này cũng tương tự như ở Trung Quốc trong thập niên 1980 và 1990, khi đó các Đại học Trung Quốc bị phê phán là quá chuyên sâu và quản trị phân tán, hoạt động trùng lắp, qui mô nhỏ, hiệu quả thấp và chất lượng thấp.
- “Chiến lược phát triển Giáo dục được Thủ tướng phê duyệt ngày 13 tháng 6 năm 2012) cũng nêu mục tiêu mới về chất lượng đào tạo.
- Tuy nhiên để đáp ứng những mục tiêu đào tạo đổi mới đó, giáo dục Đại học Việt Nam phải được cải tổ một cách cơ bản và sâu rộng, từ cải tổ chương trình đào tạo, đổi mới phương pháp giảng dạy và học tập, đổi mới đầu tư cơ sở vật chất, và nhất là phải cải tổ hệ thống tổ chức quản lý.
- Tiêu chuẩn đánh giá chất lƣợng trƣờng Cao đẳng Tiêu chuẩn đánh giá chất lượng giáo dục trường Cao đẳng.
- Tiêu chuẩn 1: Sứ mạng và mục tiêu của trường Đại học 1.
- Sứ mạng của trường Đại học được xác định phù hợp với chức năng, nhiệm vụ, các nguồn lực và định hướng phát triển của nhà trường, phù hợp và gắn kết với chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của địa phương và cả nước.
- Mục tiêu của trường Đại học được xác định phù hợp với mục tiêu đào tạo trình độ Đại học quy định tại Luật Giáo dục và sứ mạng đã tuyên bố của nhà trường, được định kỳ rà soát, bổ sung, điều chỉnh và được triển khai thực hiện.
- Cơ cấu tổ chức của trường Đại học được thực hiện theo quy định của Điều lệ trường Đại học và được cụ thể hoá trong quy chế về tổ chức và hoạt động của nhà trường.
- Tổ chức Đảng và các tổ chức đoàn thể trong trường Đại học hoạt động hiệu quả và hằng năm được đánh giá tốt, các hoạt động của tổ chức Đảng và các tổ chức đoàn thể thực hiện theo quy định của pháp luật.
- Tiêu chuẩn 3: Chương trình giáo dục 1.Chương trình giáo dục của trường Đại học được xây dựng trên cơ sở chương 16 trình khung do Bộ Giáo dục và Đào tạo ban hành.
- Chương trình giáo dục có mục tiêu rõ ràng, cụ thể, cấu trúc hợp lý, được thiết kế một cách hệ thống, đáp ứng yêu cầu về chuẩn kiến thức, kỹ năng của đào tạo trình độ Đại học và đáp ứng linh hoạt nhu cầu nhân lực của thị trường lao động.
- Chương trình giáo dục chính quy và giáo dục thường xuyên được thiết kế theo quy định, đảm bảo chất lượng đào tạo.
- Chương trình giáo dục được thiết kế theo hướng đảm bảo liên thông với các trình độ đào tạo và chương trình giáo dục khác.
- Chương trình giáo dục được định kỳ đánh giá và thực hiện cải tiến chất lượng dựa trên kết quả đánh giá

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt