« Home « Kết quả tìm kiếm

Tiểu Luận Biển Đảo Việt Nam- Tham vọng của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông


Tóm tắt Xem thử

- 1 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung QuốcPHẦN MỞ ĐẦU Biển Đông Là một vùng biển nửa kín, có diện tích 3,5 triệu km 2 trải rộngtừ 30 vĩ Bắc đến 260 vĩ Bắc và từ 1000 kinh Đông đến 1210 kinh Đông.
- Có 9 nước tiếp giáp với Biển Đông là Việt Nam, Philipine, Indonexia,Brunay, Malaixia, Singapore, Thái Lan, Campuchia, Trung Quốc và một vùnglãnh thổ Đài Loan.
- Biển Đông chứa đựng người tài nguyênthiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinh tế của các nướcxung quanh, tiền năng lớn về dầu khí, khí đốt.
- Chính vị trí chiến lược quan trọng của Biển Đông và tiền năng về tàinguyên thiên nhiên nên Biển Đông là vùng biển đang có sự tranh chấp về chủquyền, nhất là tranh chấp về chủ quyền đối với hai quần đảo Hoàng Sa vàTrường Sa của Việt Nam, trong đó Trung Quốc là nước đã và đang có những2 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốchành động ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế để đòi hỏi chủ quyền vôcăn cứ đối với các quần đảo, với phần lớn diện tích Biển Đông.
- Hành động củaTrung Quốc trên Biển Đông ngày càng gia tăng nhằm thực hiện tham vọng độcchiếm Biển Đông của giới cầm quyền Trung Quốc.
- NỘI DUNG3 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc I.
- Vai trò của Biển Đông đối với khu vực Đông Nam Á 1.1 Vị trí địa chiến lược Biển Đông nằm trên tuyến đường giao thông huyết mạch nối liền TháiBình Dương- Ấn Độ Dương, Châu Âu- Châu Á, Trung Đông- Châu Á, Nằmtrong số những tuyến đường biển thông thương lớn nhất thế giới.
- [2, tr.19] Biển Đông là tuyến đường vận tải quốc tế nhộn nhịp thứ hai trên thế giới.Mỗi ngày có khoảng 150-200 tàu các loại qua lại Biển Đông.
- [2, tr.20] 1.3 về vị trí địa kinh tế Tiềm năng về nguồn tài nguyên sinh vật biển: Biển Đông chứa đựngnguồn tài nguyên thiên nhiên biển quan trọng cho đời sống và sự phát triển kinhtế của các nước xung quanh, đặc biệt là nguồn tài nguyên sinh vật, khoáng sản,4 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốcdu lịch, đồng thời đây là khu vực chịu nhiểu sức ép về bảo vệ môi trường sinhthái biển.[2, tr.20) Tiền năng về dầu khí: Biển Đông được coi là một trong năm bồn trũngchứa dầu khí lớn nhất thế giới.
- Ngoài ra, theo các chuyên gia, khu vực Biển Đông cònchứa đựng lượng lớn tài nguyên khí đốt đóng băng (băng cháy).
- Vai trò của Biển Đông đối với Việt Nam Việt Nam giáp với Biển Đông ở ba phía Đông, Nam và Tây Nam.
- Cácvùng biển là thềm lục địa của Việt Nam là một phần Biển Đông trải dọc theo bờbiển khoảng 3.260km.
- Theo Công ước Liên Hợp Quốc về Luật Biển, Việt Namcó quyền tự nhiên lớn nhất đối với Biển Đông.
- Biển Đông trở thành không giansinh tồn đối với Việt Nam.
- Đặc biệt hai quần đảoHoàng Sa và Trường Sa nằm ở trung tâm Biển Đông, rất thuận lợi cho việc đặt5 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốccác trạm dừng chân và tiếp nhiên liệu cho tàu thuyền…phục vụ cho tuyếnđường hàng hải trên Biển Đông.[2, tr.22] II.
- THAM VỌNG CỦA TRUNG QUỐC ĐỘC CHIẾM BIỂN ĐÔNG.
- 1 Yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông.
- 1.1 Yêu sách về “ đường lưỡi bò”Tháng 02-1947, Bộ Nội vụ Trung Hoa Dân quốc đã tiếp tục cho xuất bản tàiliệu tra cứu tên cũ của các đảo ở Biển Đông trong đó liệt kê 159 đảo, đá.
- Đường chữ U được thể hiện là một đườngđứt khúc gồm 11 đoạn bao trùm cả bốn nhóm quần đảo, bãi ngầm lớn trên BiểnĐông, đó là các quần đảo Paracels (Hoàng Sa), Spratlys (Trường Sa) và Pratas(Trung quốc gọi là Đông Sa) và bãi cạn Macclesfield (Trung quốc gọi là TrungSa), chiếm khoảng 80% diện tích Biển Đông.[ 1, tra.358] Trung Quốc đưa ra yêu sách về “Đường lưỡi bò” dựa theo quan điểm củabản đồ xuất hiện đường lưỡi bò đầu tiên của Trung Hoa Dân quốc năm 1948 màcác học giả Trung Quốc cho là kế thừa lịch sử.
- Năm 1949, nước CHND Trung6 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung QuốcHoar a đời, quốc gia này sau đó thay thế Cộng hòa Trung Hoa trở thành thànhviên thường trực của Hội đồng Bảo an Liên hợp quốc.
- Đến năm 1953, bản đồ vẽ “ đường lưỡibò” của Trung Quốc xuất bản chỉ còn 9 đoạn.
- Cả chính phủ Trung Hoa Dânquốc trước đây và CHND Trung Hoa sau này chưa bao giờ đưa ra lời tuyên bốhoặc giải thích chính thức gì về “ đường lưỡi bò” đó cả, Trung Quốc cũng chưachính thức đăng ký về ranh giới thềm lục địa.
- [1, tr.358] 1.2 Những lập luận áp đặt, thiếu căn cứ của Trung Quốc.
- Với tham vọng độc chiếm Biển Đông, Trung Quốc đã bất chấp luật phápquốc tế và công luận.
- Trung Quốc không có cơ sở pháp lý, không chứng minhđược chủ quyền của mình đối với hia quần đào Hoàng Sa và Trường Sa.
- Đểbiện minh cho yêu sách vô căn cứ của mình Trung Quốc đã đưa ra những lậpluật áp đặt, xuyên tạc, thiếu căn cứ để đòi hỏi yêu sách của mình cụ thể như sau.
- Trung Quốc xuyên tạc nội dung Công ước Pháp- Thanh ngày 26-6-1887để khẳng định chủ quyền của họ tại Hoàng Sa và Trường Sa của Việt Nam.Công ước Pháp- Thanh năm 1887 chỉ quy định biên giới ở Vịnh Bắc Kỳ màHoàng Sa nằm dưới vĩ tuyến 17 nên không thuộc vịnh Bắc Kỳ, vì thế viện dẫnCông ước Pháp- Thanh năm 1887 đối với vấn đề Hoàng Sa là không đúng.
- [1,tr.336]7 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc - Trung Quốc đã cố tình xuyên tạc lịch sử và diễn giải sai lịch sử khi việndẫn Công thư của cố thủ tướng Phạm Văn Đồng năm 1959 để củng cố yêu sáchcủa Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.
- Ngày Bộ Ngoại giao nước Cộng hòa Nhân dân Trung Hoađã công bố tài liệu có tên Chủ quyền không thể tranh cãi của Trung Quốc đốivới các đảo Tây Sa và Nam Sa đã khẳng định.
- Một số lớn sách lịch sử và cáctài liệu cũng như rất nhiều các di vật khảo cổ khai quật được đều chứng minh rõrằng các đảo Tây Sa và Nam Sa từ lâu đời là lãnh thổ của Trung Quốc”.
- Nhữngchứng cứ và sự viện dẫn mà Trung Quốc đưa ra để chứng minh cho chủ quyềncủa Trung Quốc với hai quần đảo Tây Sa và Nam Sa (Hoàng Sa và Trường Sa)là sự áp đặt vì không có căn cứ lịch sử rõ ràng nên không có sức thuyết phục.[1,tr.312.
- Công hàm ngày 07-5-2009 của Trung Quốc có kèm bản đồ đường chữU, Trung Quốc đòi hỏi cộng đồng quốc tế phải thừa nhận “ tính chất lịch sử của“ đường lưỡi bò”, coi Biển Đông như một vịnh lịch sử”.
- [1, tr.363]8 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc - Ngày nhằm đáp trả công hàm phản đối đường lưỡi bò củaPhilippines, Trung Quốc gửi Công hàm cáo buộc Philippines “ xâm lược”,chiếm đóng trái phép một số đảo của Trung Quốc ở quần đảo Nam Sa (TrườngSa).
- Tại Công hàm này Trung Quốc khẳng định.
- Hành động, hình thức để thực hiện tham vọng độc chiếm BiểnĐông của Trung Quốc.
- 2.1 Hành động xâm phạm chủ quyền với quần đảo Hoàng Sa,Trường Sa của Trung Quốc Năm 1909, chính quyền Quảng Đông (Trung Quốc) đã đặt tên Đông Sacho quần đảo Paratas, sau đó là Tây Sa cho quần đảo Paracels (Hoàng Sa) thuộcchủ quyền của Việt Nam.
- Tiếp đó, phó vương Tổng đốc Lưỡng Quảng đòi sởhữu tất cả các nhóm đảo nằm dọc theo bờ biển của triều Thanh và coi các đảođó như một bộ phận của Trung Quốc.
- Trong số nhóm đảo đó có Hoàng Sa.Tháng 4-1909, một phái đoàn của Trung Quốc đã ra quần đảo Hoàng Sa đểthám sát.
- Họ phát hiện được nguồn Phosphate phong phú có thể khai thác được.[1, tr.220]9 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc Ngày Phó vương tổng đốc Lưỡng Quảng đã phái hai tàu chiếnnhỏ do thủy sư Đô đốc Lý Chuẩn chỉ huy tới Hoàng Sa, rồi long trọng kéo cờTrung Quốc trên hai hòn đảo quan trọng nhất, đồng thời bắn 21 phát đại bácchào mừng để khẳng định chủ quyền sở hữu đối với toàn bộ các đảo Hoàng Sa,cuộc đổ bộ của phái đoàn Trung Quốc diễn ra chóng vánh (trong 24 giờ).
- Phápim lặng trước hành động Trung Quốc vi phạm chủ quyền trên quần đảo HoàngSa của Việt Nam.
- Mặt khác người Pháp tập trung nghiên cứu các tài liệu về các triềuđại phong kiến Việt Nam xưa, nhất là triều Nguyễn đã xác lập chủ quyền củaViệt Nam trên hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.10 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc Năm 1931, Trung Quốc cho đấu thầu việc khai thác phân chim trên quầnđảo Hoàng Sa.
- Ngày chính phủ Pháp đã gửi một thông điệp choCông sứ quán Trung Quốc tại Paris về yêu sách các đảo.
- Ngày 29-4-1932,Kháng nghị của Chính phủ Pháp đã nêu rõ bằng chứng về sự chiếm hữu củaViệt Nam, sau đó là của Pháp đối với hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa.Chính phủ Pháp lần đầu tiên đề nghị đưa vụ tranh chấp giữa Trung Quốc vàPháp ra các tòa án quốc tế.
- Trung Quốc đã phản đối đề nghị này của Pháp.[1,tr.225] Ngày Công sứ quán Trung Quốc tại Paris đã gửi Công hàmtới Bộ Ngoại giao Pháp và cho rằng những bằng chứng lịch sử mà Chính phủPháp đưa ra không có sức thuyết phục, đồng thời khẳng định các hiệp ước, tàiliệu và hồ sơ đều chứng tỏ quần đảo Hoàng Sa là một bộ phận lãnh thổ TrungQuốc.
- Ngày Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung QuốcBộ Ngoại giao Pháp ra thông báo về việc Hải quân Pháp chiếm hữu một số đảothuộc quần đảo Trường Sa và phụ cận.[1, tr.226] Năm 1938 Pháp bắt đầu phái các đơn vị bảo an tới các đảo và xây dựngmột hải đăng, một trạm khí tượng đặt ở đảo Hoàng Sa và số 48859 ở đảo PhúLâm, một trạm vô tuyến điện TSF trên đảo Hoàng Sa.[5, tr.24] Ngày Toàn quyền Đông Dương Jules Brévíe ký Nghị định số156-S-V thành lập đơn vị hành chính ở đảo Hoàng Sa thuộc tỉnh Thừa Thiên.Tháng 6-1938, một dơn vị bảo an Việt Nam được phái ra đồn trú tại quần đảoHoàng Sa.
- Ngày ngay sau khi Nhật đầu hàng, quân Nhật đã rút khỏi quần đảo Hoàng Savà trường Sa.[5, tr.25]12 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc 2.2.
- Hành động chiếm đóng các đảo ở quần đảo Hoàng Sa và TrườngSa của Trung Quốc Năm 1946, lợi dụng việc giải giáp quân Nhật và nhân lúc quân đội viễnchinh Pháp và Chính phủ Việt Nam dân chủ cộng hòa đang bận đối phó vớicuộc chiến tranh toàn diện sắp sảy ra, thì ngày hạm đội đặc biệtcủa Trung Hoa Dân quốc gồm 4 chiến hạm, mỗi chiếc chở một số đại diện củacác Bộ và 59 binh sĩ cảnh vệ của Hải quân ra chiếm các đảo ở quần đảo HoàngSa và Trường Sa.
- [2, tr.29] Ngày Chính phủ Pháp chính thức phản đối sự chiếm đóng bấthợp pháp của Trung Quốc đối với quần đảo Hoàng Sa.
- Chính phủ Trung Hoa Dân quốc phản kháng và các cuộc thương lượng13 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốcđược tiến hành tại Paris.
- Trước14 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốchành động xâm chiếm một số đảo ở quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa do TrungHoa tiến hành vào thời điểm giao thời này, Chính phủ Việt Nam Cộng hòa đãlên tiếng phản đối.
- Hành động chiếm đóng quần đảo Hoàng Sa của Trung Quốc Năm 1956, Cộng hòa Nhân dân Trung Hoa tiến hành chiếm đóng nhómđảo phía đông của quần đảo Hoàng Sa, thực hiện kế hoạch xâm chiếm trên BiểnĐông.
- Tiếp đến, năm 1971, hai nước Philippines vàTrung Hoa (gồm cả Đài Loan) ngang nhiên tuyên bố chủ quyền trên quần đảoTrường Sa thì phía Việt Nam Cộng hòa cũng đã lên tiếng phản đối kịch liệt.[1,tr.238] Ngày Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phần phía tâyquần đảo Hoàng Sa vả để hoàn tất âm mưu chiếm đóng hoàn toàn quần đảo nàytrong suốt 18 năm họ quyết tâm theo đổi.
- Sau trận hải chiến này toàn bộ các đảophía tây quần đảo Hoàng Sa đã bị Trung Quốc chiếm đóng.
- Ngay sau khi chiếm15 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốcđóng, Trung Quốc cho đập phá các bia chủ quyền của Việt Nam tại quần đảoHoàng Sa, đào các mộ của người Việt đã chon ở đó, xóa các di tích lịch sử củangười Việt để áp đặt “chủ quyền” của họ trên quần đảo này.
- Hành động đánhchiếm các đảo trong quần đảo trên Biển Đông bằng vũ lực của Trung Quốc làmột sự vi phạm nghiêm trọng điều 2 khoản 4 của hiến chương Liên Hợp quốc,trong đó cấm các quốc gia dùng vũ lực trong quan hệ quốc tế, đặc biệt là cấmsử dụng vũ lực để xâm phạm chủ quyền và toàn vẹn lãnh thổ của các quốc giakhác.
- Hành động Trung Quốc dùng vũ lực đánh chiếm phần phía Đông củaquần đảo Hoàng Sa năm 1956 và chiếm phần phía Tây của quần đảo năm 1974thực chất là một hành động xâm lược lãnh thổ Việt Nam.
- Theo luật pháp quốctế việc Trung Quốc sử dụng vũ lực để chiếm các đảo ở quần đảo Hoàng Sakhông tạo ra được chứng cứ pháp lý để khẳng định chủ quyền của Trung Quốcđối với các đảo, đá mà họ đã dùng vũ lực để chiếm đoạt.
- Hành động xâm lượcnói trên của Trung Quốc càng thể hiện rõ tham vọng bành trướng lãnh thổ củaTrung Quốc ở Biển Đông.[2, tra.38,39] Ngay trong ngày Bộ Ngoại giao Việt Nam Cộng hòa đã ratuyên cáo về hành động xâm chiếm của Trung Hoa rằng.
- Các hành độngquân sự của Trung Cộng là hành vi xâm phạm trắng trợn vào lãnh thổ ViệtNam Cộng hòa, và một lần nữa vạch trần chánh sách bành trướng đế quốc màTrung Quốc liên tục theo đuổi”[1, tra.242]16 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc 2.4.
- Hành động và tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc(Từ 1975 đến nay) Ngày 5-4-1975, Bộ tư lệnh Hải quân đã triển khai kế hoạch chiến đấugiải phóng quần đảo Trường Sa.
- Từ ngày 13 đến ngày 28tháng 4, Hải quân nhân dân Việt Nam đã giải phóng và tiếp quản các đảo, đồngthời triển khai lực lượng tại các đảo và một số vị trí khác để bảo vệ quần đảoTrường Sa.[5, tr.31] Sau khi chiếm giữ trái phép các đảo Chữ Thập, Châu Viên, Huy Gơ, GaVen và Subi, quân Trung Quốc tiếp tục chuẩn bị thực hiện ý đồ thôn tính 3 đảoGạc Ma, Cô Lin, Len Đao.
- Ngày 14-3-1988 Trung Quốc nổ súng chiếm GạcMa, trong cuộc chiến đấu không cân sức để bảo vệ Trường Sa, chúng ta đã chặnđứng được bước chân bành trướng nguy hiểm của Trung Quốc về phía tây quầnđảo Trường Sa hòng cắt đứt tuyến đường liên lạc giữa đất liền với quần đảo,tiến tới cô lập và thôn tính toàn bộ quần đảo Trường Sa và hiện thực hóa đườnglưỡi bò của Trung Quốc.[2, tr.43] Để tiếp tục khẳng định chủ quyền và yêu sách “đường lưỡi bò” phi lýcủa Trung Quốc đối với phần lớn Biển Đông, Trung Quốc tăng cường các hành17 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốcđộng gây hấn, xâm chiếm ở Biển Đông và hai quần đảo Hoàng Sa và TrườngSa.
- Hành động gây hấn, ngang ngược, bất chấp luật pháp quốc tế, nhằm hiệnthực hóa tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc, hoạt động khiêukhích của Trung Quốc trên Biển Đông ngày càng trở lên hung hăng, trắng trợn.Trung Quốc tăng cường sự hiện diện một cách toàn diện: Quân sự, bán quân sựvà dân sự.
- Năm 1993, Thủ tướng Trung Quốc Lý Bằng tuyên bố: Vấn đề tại quầnđảo Trường Sa, nơi mà chủ quyền thuộc về Trung Quốc, chúng tôi đề nghị gáctranh chap để cùng khai tác chung.
- Năm 2007, Trung Quốc cho lưu hành bản đồ phân lô dầu khí trong khuvực đường lưỡi bò và cho phép các công ty quốc doanh Trung Quốc đứng ramời thầu khai thác các lô đó.
- Động tháinày cho thấy Trung Quốc sẵn sảng đơn phương khai thác năng lượng trongđường lưỡi bò bất chấp sự phản đối của các nước.[2, tr.62.
- Ngày tàu hải giám Trung Quốc số 84,72 và 17 cắt cápthăm dò tàu Bình Minh 02 của tập đoàn dầu khí Việt Nam.
- Ngày Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốcđược sự yểm trợ của các tàu Ngư chính ( số hiệu 311 và 303), tàu đánh cá TrungQuốc mang số hiệu 6226 đã phá cáp của tàu Viking II trong phạm vi 200 hải lýtrên thềm lục địa của Việt Nam.
- Ngày một cặp tàu kéo giã càomang số hiệu 16025 và 16028 của Trung Quốc đã chạy qua phía sau, gây đứtcáp địa chấn của tàu Bình Minh 02 cách phao đuôi khoảng 25m.
- Đây là những hành độngphá hoại, ngăn cản hoạt động thăm dò và khai thác biển của Trung Quốc đối vớiViệt Nam.[2, tr.65.
- Từ năm 1999, Trung Quốc hằng năm đều tự ban hành lệnh cấm đánhbắt cá trên Biển Đông, nơi Trung Quốc tự cho là thuộc chủ quyền của mình.Đến năm 2009, vùng cấm đánh bắt cá này được mở rộng sang phạm vi lãnh hảiViệt Nam, bất chấp sự phản đối của Việt Nam.
- Ngày quốc vụ viện Trung Quốc đã phê chuẩn việc thành lậpthành phố Tam Sa (cấp địa khu , trực thuộc tỉnh Hải Nam), để quản lý 3 quầnđảo Hoàng Sa, Bãi Macclesfied, Trường Sa và các vùng nước xung quanh cácđảo này.
- Ngày Quân ủy Trung ương Trung Quốc đã phê chuẩn thànhlập và triển khai Bộ chỉ huy quân đồn trú ở “thành phố Tam Sa”.
- Ngày Trung Quốc tổ chức bầu cử đại biểu của “ Hội đồng Nhân dân Tam Sa”.Sự kiện xây dựng và hợp thức hóa cái gọi là “ thành phố Tam Sa” là một trong19 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốcnhững bược đi của Trung Quốc nhằm tiến tới thực hiện ý đồ kiểm soát, khốngchế và độc chiếm Biển Đông.[2, tr.51,52.
- Từ năm 2013 đến năm 2015, Trung Quốc đã bồi đắp trái phép 7 bãi đátrong quần đảo Trường Sa gồm: bãi đá Vành Khăn, Subi, Chữ Thập, Châu Viên,Ga Ven, Gạc Ma, Tư Nghĩa , hành động tạo lập trái phép các đảo nhân tạo củaTrung Quốc tại quần đảo Trường Sa của Việt Nam đã vi phạm Công ước LuậtBiển năm 1982.
- Tuyên bố và ứng xử của các bên ở Biển Đông và các điều ướcquốc tế về môi trường, an ninh, an toàn và tự do hàng hải mà Trung Quốc làthành viên.
- Việc bồi đáp các bãi đá thành đảo nhân tạo và quân sự hóa trên cácđảo nhân tạo đã thể hiện rõ âm mưu bành trướng và độc chiếm Biển Đông củaTrung Quốc, đồng thời đe dọa nghiêm trọng đến an ninh của khu vực, huy hoạimôi trường sinh thái biển.
- Đặc biệt nghiêm trọng, ngày 2-5-2014, Trung Quốc hạ đặt giàn khoanHải Dương 981 ở vị trí cách đảo Tri Tôn thuộc quần đảo Hoàng Sa của ViệtNam 17 hải lý về phía Nam, cách đảo Lý Sơn khoảng 120 hải lý về phía Đông,nằm hoàn toàn trong vùng đặc quyền kinh tế 200 hải lý của Việt Nam theo côngước Liên Hợp Quốc về Luật Biển.
- Để bảo vệ giàn khoan này, Trung Quốc huyđộng tàu thuyền các loại, trong đó có 7 tàu quân sự như tàu hộ vệ tên lửa 534,tàu tuần tiễu tên lửa tấn công nhanh 753, 33 tàu hải cảnh cùng nhiều tàu vận tải,tàu cá, máy bay hoạt động trong khu vực, số tàu hộ tống của Trung Quốc lên tới20 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốchơn 100 chiếc.
- Tàu Trung Quốc liên tục có những hành vi gây hấn, khiêu khíchnhư sử dụng vòi rồng tấn công tàu của Việt Nam, sẵn sang đâm huc gây hưhỏng cho tàu Việt Nam và làm bị thương một số kiểm ngư viên làm nhiệm vụvảo vệ chủ quyền.
- Ngày tàu Trung Quốc đã bao vây và đâm chìmtàu cá của ngư dân Đà Nẵng ở khu vực Nam Tây Nam cách giàn khoan 17 hảilý, là ngư trường truyền thống, thuộc vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địacủa Việt Nam.
- Ngày sau 75 ngày hạ đặt trái phép giàn khoan HảiDương 981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa của Việt Nam, dướisức ép của cộng đồng quốc tế, Trung Quốc đã phải rút giàn khoan Hải Dương981 ra khỏi vùng biển Việt Nam.
- Sự kiện giàn khoan Hải Dương 981 chứngminh chiến lược, tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc ngày càngquyết liệt, mạnh mẽ, thô bạo hơn.
- Trung Quốc còn gây hấn, gây căng thẳng với Philippines tại Biển Đôngchủ yếu và tập trung trong cuộc tranh chấp bãi cạn Scarborough mà Philippinestuyên bố chủ quyền.
- Tháng 4-2012, Trung Quốc đã chiếm bãi ngầmScarborough.
- Ngày Hải quân Trung Quốc phô trương thanh thếngay tại một rạn san hộ ở vùng cực Nam Biển Đông, bãi san hô James shoal màMa-lai-xia tuyên bố chủ quyền, nhưng bị Trung Quốc tranh chấp.
- Hành độngmới đây nhất của Trung Quốc là đưa vùng đảo Natuna của In-dô-nê-xia vàođường lưỡi bò kéo dài.[ 2, tr.67]21 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc KẾT LUẬN Từ năm 1909, Đô đốc Lý Chuẩn theo lệnh của Tổng đốc Lưỡng Quảngđưa ba tàu ra vùng quần đảo Hoàng Sa, xâm phạm chủ quyền lãnh thổ ViệtNam, đến tháng 5-2014, Trung Quốc ngang nhiên hạ đặt giàn khoan Hải Dương981 trong vùng đặc quyền kinh tế và thềm lục địa Việt Nam và cho rằng đây làđiểm “bước ngoặt và là cấp độ quyết đoán mới” của Trung Quốc.Đây là mốcđánh dấu quá trình 105 năm, Trung Quốc vi phạm chủ quyền Việt Nam.
- Đếnnay trong hơn 105 đó, để biện minh cho hành động vi phạm chủ quyền của ViệtNam trên Biển Đông nói chung và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nóiriêng, Trung Quốc tập trung lực lượng tìm kiếm, kể cả việc ngụy tạo chứng cớ,chuẩn bị dư luận và lựa chọn cơ hội để đi từ vi phạm của quyền đến xâm chiếmlãnh thổ trên biển Đông nói chung và hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa nóiriêng.[1, tr.309] Hai quần đảo Hoàng Sa và Trường Sa thuộc chủ quyền không thể bàn cãicủa Việt Nam, chúng ta có đầy đủ chứng cứ lịch sử, tư lieu để chứng minh quá22 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốctrình lịch sử xác lập và thực thi chủ quyền lâu dài đối với hai quần đảo HoàngSa và Trường Sa, bắt đầu thời thời nhà Nguyễn đã xác lập chủ quyền đối với haiquần đảo.
- Trước họ Nguyễn đặt đội Hoàng Sa70 suốt, lấy người xã An Vĩnh sung vào, cắt phiên mỗi năm cứ tháng 2 nhậngiấy sai đi, mang lương đủ 6 tháng, đi bằng 5 chiếc thuyền câu nhỏ, ra biển 3ngày 3 đêm thì đến nơi đảo ấy” [4, tr.100,101] Với tham vọng bành trướng, Trung Quốc đưa ra thuyết vô căn cứ về “đường chữ U” còn gọi là “ đường 9 đoạn”, “đường lưỡi bò” hòng xâm chiếmhầu hết Biển Đông, coi Hoàng Sa và Trường Sa là thuộc quyần của họ.
- Sau khichiếm Hoàng Sa (1974), chiếm đảo Gạc Ma (1988), quân Trung Quốc thườngxuyên gây hấn trên biển trực tiếp xâm phạm chủ quyền của Việt Nam,Philippines và nhiều nước Đông Nam Á khác.
- Từ đầu thế kỉ XXI, hoạt độngkhiêu khích của Trung Quốc trên Biển Đông ngày càng trở lên hung hăng, trắng23 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốctrợn, thể hiện rõ yêu sách và tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc.[3, tr.205] Cuộc đấu tranh chống lại sự xâm phạm chủ quyền biển, đảo của TrungQuốc đối với Việt Nam đã để lại cho chúng ta những bài học: Một: Huy động và phát huy được sức mạnh của khối đoàn kết dân tộc,khu vực và quốc tế, bằng cách phải thể hiện lập trường rã ràng.
- Sáu: Tăng cường tinh thần đoàn kết trong khối ASEAN trong vấn đềtranh chấp ở Biển Đông.24 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc TÀI LIỆU THAM KHẢO1.
- Sự kiện giàn khaon Hải Dương 981 và tham vọng của Trung Quốc độc chiếmBiển Đông.
- Nxb Hồng Đức, 201525 Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc MỤC LỤC TrangPhần mở đầu Nội dungI.
- vai trò của Biển Đông đối với khu vực và Việt Nam…………………31.
- Vai trò của Biển Đông đối với khu vực Đông Nam Á……………..32.
- Vai trò của Biển Đông đối với Việt Nam II.
- Tham vọng của Trung Quốc độc chiếm Biển Đông…………………..51.
- Yêu sách của Trung Quốc ở Biển Đông .
- Hành động, hình thức để thực hiện tham vọng độcchiếm Biển Đông của Trung Quốc Kết luận Tiểu luận: Tham vọng độc chiếm Biển Đông của Trung Quốc

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt