« Home « Kết quả tìm kiếm

ĐẶC ĐIỂM GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN TRƯỜNG CAO ĐẲNG SƯ PHẠM QUẢNG TRỊ


Tóm tắt Xem thử

- ĐẶC ĐIỂM GIAO TIẾP CỦA SINH VIÊN.
- Bài viết tập trung nghiên cứu các đặc điểm cơ bản trong giao tiếp của sinh viên trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị ở các mặt: cường độ nhu cầu, nội dung, kỹ năng giao tiếp, và trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp tác động hoàn thiện giao tiếp của sinh viên sư phạm với tư cách công cụ và phương tiện cơ bản trong hoạt động của nhà giáo dục tương lai..
- Giao tiếp là mặt đặc trưng nhất trong hành vi của con người, nó không những là điều kiện quan trọng bậc nhất của sự hình thành và phát triển tâm lý, ý thức, nhân cách mà còn đảm bảo cho con người đạt được năng suất, chất lượng và hiệu quả trong mọi lĩnh vực hoạt động..
- Đối với nghề dạy học, giao tiếp không những có vai trò quan trọng trong sự hình thành và phát triển nhân cách người giáo viên mà còn là một bộ phận cấu thành hoạt động sư phạm, là thành phần chủ đạo trong cấu trúc năng lực sư phạm của người giáo viên..
- Giao tiếp là phương thức, công cụ cơ bản nhất để tổ chức hoạt động dạy học và giáo dục..
- Nếu không có giao tiếp thì không thể hướng hoạt động sư phạm của thầy và trò vào việc đạt được các mục đích giáo dục.
- Do đó, vấn đề đặt ra đối với nhiệm vụ đào tạo nghề sư phạm là mỗi sinh viên phải được chuẩn bị và chủ động tự chuẩn bị cho mình về năng lực giao tiếp..
- Hành trang của sinh viên khi bước vào cuộc sống nghề giáo ngoài tư cách, phẩm chất đạo đức tốt, niềm tin và bầu nhiệt huyết với sự nghiệp trồng người còn phải vững về chuyên môn và giỏi về nghiệp vụ sư phạm, trong đó có năng lực giao tiếp.
- Vì vậy, việc rèn luyện năng lực giao tiếp cho sinh viên sư phạm là vấn đề cấp thiết.
- Muốn rèn luyện năng lực giao tiếp cho sinh viên thì phải nắm được đặc điểm giao tiếp của họ.
- Trong khuôn khổ bài viết này, chúng tôi trình bày kết quả nghiên cứu về các đặc điểm nhu cầu, nội dung và kỹ năng giao tiếp của sinh viên.
- trường Cao đẳng Sư phạm Quảng Trị (CĐSPQT) và trên cơ sở đó đề xuất các biện pháp tác động hoàn thiện giao tiếp của sinh viên sư phạm với tư cách công cụ và phương tiện cơ bản trong hoạt động của nhà giáo dục tương lai..
- Nghiên cứu được tiến hành trên 180 sinh viên trường CĐSPQT trong 2 năm 2006 và 2007 bằng cách sử dụng phối hợp hệ thống các phương pháp nghiên cứu tâm lý như:.
- Về nhu cầu giao tiếp của sinh viên trường CĐSPQT.
- Để đo nhu cầu giao tiếp (NCGT) của sinh viên, chúng tôi sử dụng trắc nghiệm P.O do trường Đại học Sư phạm Lênin (Liên Xô cũ) soạn thảo và đã thu được kết quả như sau:.
- Nhu cầu giao tiếp của sinh viên trường CĐSPQT Mức độ.
- TN – sinh viên các khoa tự nhiên.
- MN – mầm non Bảng 1 cho thấy phần lớn sinh viên có NCGT ở mức trung bình (46,11%) và trung bình cao (26,67.
- Xét theo tổng thể có thể thấy mức độ NCGT của sinh viên có sự phân hoá khá rõ rệt.
- Kết quả trên so với các công trình nghiên cứu khác về NCGT của sinh viên (chẳng hạn nghiên cứu của Nguyễn Thanh Bình trên đối tượng là sinh viên Đại học Giao thông vận tải ĐHGTVT) cho thấy có sự khác biệt về mức độ NCGT của sinh viên các trường chuyên nghiệp.
- Tỷ lệ sinh viên trường CĐSPQT đạt các mức cao, trung bình cao, trung bình lớn hơn ở trường ĐHGTVT (75,56% so với 73%) và tỷ lệ sinh viên đạt mức thấp, trung bình thấp của sinh viên ĐHGTVT cao hơn so với trường CĐSPQT (27% so với 24,44.
- Điều này có thể giải thích là do tính chất đặc thù trong hoạt động nghề nghiệp mà sinh viên sư phạm và sinh viên ĐHGTVT hướng tới, một bên có đối tượng trực tiếp là con người còn một bên đối tượng trực tiếp là sự vật (máy móc, cầu đường.
- Yêu cầu của hoạt động nghề nghiệp đòi hỏi sinh viên sư phạm phải tiếp xúc với nhiều đối tượng khác nhau, có vốn hiểu biết, kinh nghiệm sống, thói quen, tính cách, nghề nghiệp… khác nhau.
- Chính các mối quan hệ này khiến sinh viên sư phạm - những người giáo viên tương lai, phải tích cực, chủ động trong GT và có NCGT cao so với mọi người để tập dượt và.
- Điều này cho thấy sự ảnh hưởng của nghề nghiệp tương lai đối với NCGT của sinh viên trường CĐSPQT..
- Nếu so sánh giữa các khoa đào tạo thì sinh viên theo học các ngành thuộc các khoa khác nhau có NCGT ở các mức độ như nhau, thể hiện rõ khi sử dụng tiêu chí “Khi- bình phương” để kiểm định ta có χ 2 =20,01<.
- χ α có nghĩa là không có sự khác biệt về mức độ nhu cầu giao tiếp của SV các khoa khác nhau.
- Sự chênh lệch không lớn về tỷ lệ phần trăm ở cùng mức độ NCGT và số điểm trung bình chung đạt được của sinh viên các khoa đào tạo khác nhau đã cho thấy sự khác nhau về lĩnh vực chuyên môn ảnh hưởng không lớn đến NCGT của sinh viên.
- Trong khi nhiều công trình nghiên cứu khác cho thấy nhu cầu giao tiếp của sinh viên khoa xã hội cao hơn khoa tự nhiên.
- Có thể xem đây là một trong những điểm đặc trưng trong nhu cầu giao tiếp của sinh viên trường CĐSPQT..
- Nhu cầu giao tiếp của sinh viên nam và nữ không có sự khác nhau.
- χ α 2 = 9,49 cho thấy không có sự khác biệt có ý nghĩa về tần số mức độ biểu hiện nhu cầu giao tiếp ở cả nam và nữ.
- Nếu xét theo khoá học, NCGT của sinh viên được đào tạo trong thời gian khác nhau có NCGT khác nhau.
- Sinh viên năm III có tỉ lệ đạt mức cao (4,26%) và trung bình cao (38,30%) nhiều hơn SV năm I (nhiều hơn lần lượt 1,27.
- Như vậy, NCGT của sinh viên năm III cao nhất và năm I thấp nhất trong 3 khoá học..
- Qua tìm hiểu NCGT của sinh viên trường CĐSPQT ta thấy đa số sinh viên có NCGT ở mức trung bình và trung bình cao, NCGT của sinh viên thể hiện tính chất đặc thù của nghề nghiệp chuyên môn được đào tạo, khoá học và giới tính.
- Bên cạnh đó, tỷ lệ sinh viên sư phạm có NCGT ở mức trung bình thấp và thấp còn khá lớn.
- Về nội dung giao tiếp của sinh viên trường CĐSPQT.
- Khi nghiên cứu nội dung giao tiếp (NDGT) của sinh viên trường CĐSPQT, chúng tôi tìm hiểu xem trong quá trình GT họ thường trao đổi với nhau về chủ đề gì.
- Kết quả nghiên cứu cho thấy NDGT của sinh viên rất đa dạng và phong phú: từ nội dung học tập, phương pháp học tập đến việc phấn đấu tu dưỡng, rèn luyện nghiệp vụ sư phạm.
- từ tệ nạn xã hội đến thời trang, nghệ thuật, thể thao… Nội dung giao tiếp thể hiện cụ thể trong bảng 2..
- Trong 18 chủ đề giao tiếp thường xuyên của sinh viên có thể nêu lên nhóm chủ đề giao tiếp thường xuyên nhất, bao gồm: a) nội dung học tập, có tỷ lệ sinh viên thường xuyên giao tiếp là 91,11%, xếp bậc 1/18.
- Nhóm chủ đề giao tiếp ít thường xuyên nhất, bao gồm: a) hôn nhân, có tỷ lệ sinh viên thường xuyên giao tiếp là.
- Nội dung giao tiếp của sinh viên trường CĐSPQT TT.
- 3 Nghiệp vụ sư phạm .
- Như vậy, nội dung giao tiếp và thứ bậc của chúng có liên quan chặt chẽ đến lứa tuổi thanh niên, với nội dung và tính chất của hoạt động chủ đạo là học tập và rèn luyện, với đặc trưng nghề được đào tạo… của sinh viên sư phạm.
- Trong đó, nội dung và phương pháp học tập được sinh viên trao đổi nhiều nhất.
- Ngoài ra, những nội dung có liên quan mật thiết và gần gũi, thuộc về yêu cầu đào tạo của sinh viên sư phạm cũng được sinh viên thường xuyên bàn đến, đó là chủ đề nghiệp vụ sư phạm, xây dựng, phấn đấu, rèn luyện về đạo đức, chính trị, tư tưởng, về tình hình giáo dục hiện nay…..
- Kỹ năng giao tiếp của sinh viên trường CĐSPQT.
- Để tìm hiểu về kỹ năng giao tiếp (KNGT) của sinh viên trường CĐSPQT, chúng tôi đã tiến hành nghiên cứu trên mẫu 180 sinh viên bằng cách sử dụng trắc nghiệm GT của V.P.Dakharov và thu được kết quả như sau..
- Phần lớn sinh viên có KNGT ở mức trung bình và trung bình thấp, xét trung bình chung có khoảng 50,28% sinh viên có KNGT ở mức trung bình, 26,81% ở mức trung bình thấp.
- Tỷ lệ sinh viên đạt mức độ cao rất ít, chiếm 0,97% trong tổng số sinh viên.
- Số sinh viên có KNGT ở mức độ thấp chiếm tỷ lệ thấp (7,22%)..
- Điểm trung bình từng KNGT của sinh viên trường CĐSPQT STT Các kỹ năng.
- Nhóm A 31,39 Trung bình.
- Nhóm C 36,60 Trung bình.
- Chung 102,33 Trung bình.
- Bảng 3 cho thấy rằng, đối với nhóm kỹ năng A (nhóm kỹ năng thể hiện vai trò tích cực, chủ động trong GT), sinh viên trường CĐSPQT đạt mức độ trung bình.
- Điều đó thể hiện kỹ năng tự kiềm chế, kiểm tra người khác, kỹ năng thuyết phục đối tượng GT và chủ động điều khiển quá trình GT của sinh viên còn chưa cao.
- Kỹ năng chủ động điều khiển quá trình GT (Ai) xếp vị trí thứ hai (11,23 điểm) và kỹ năng thuyết phục đối tượng GT (Ah) xếp vị trí thứ ba (với 8,02 điểm).
- Đối với nhóm kỹ năng B (những kỹ năng thể hiện sự thụ động trong GT), sinh viên trường CĐSPQT đạt mức trung bình cao với 22,69 điểm.
- Trong đó, kỹ năng nghe đối tượng có số điểm cao nhất (13,87 điểm) trong mười kỹ năng được khảo sát, cao hơn kỹ năng cùng nhóm (Bj) 5,05 điểm (gấp 1,57 lần).
- Kỹ năng thể hiện sự nhạy cảm trong GT sinh viên chỉ đạt mức độ trung bình (Bj = 8,82 điểm).
- Điều này chứng tỏ khả năng nắm bắt trạng thái tâm lý của người khác ở sinh viên chưa cao, sinh viên chưa có kỹ năng “đọc” trên nét mặt, cử chỉ, hành vi, lời nói để phát hiện chính xác và đầy đủ thái độ, cảm xúc của đối tượng GT, từ đó phán.
- Vì vậy, sinh viên chưa có khả năng rõ rệt trong việc đảm bảo sự đồng cảm với đối tượng GT, chưa biết “chia ngọt sẻ bùi” với đối tượng một cách chân thực.
- Để đạt kỹ năng này là điều rất khó, sinh viên phải rèn luyện nhiều trong hoạt động GT của mình, phải tiếp xúc với đối tượng nhiều lần mới có thể nắm bắt được đặc điểm trạng thái tâm lý, mới có thể đồng cảm với họ.
- Điều này phụ thuộc rất nhiều vào kinh nghiệm GT, vấn đề mà sinh viên sư phạm còn rất hạn chế, nên kỹ năng này của họ chưa cao là điều dễ hiểu..
- Nhóm kỹ năng C (những kỹ năng điều chỉnh sự phù hợp, cân bằng trong GT) của sinh viên trường CĐSP Quảng Trị đạt mức trung bình (36,60 điểm).
- Từ số liệu này chứng tỏ sinh viên trường CĐSP Quảng Trị nhìn chung có hành vi ứng xử chưa phù hợp, khoa học, chính xác với nhu cầu, mong muốn, nguyện vọng của đối tượng trong quá trình GT, chưa có khả năng cao trong việc tự chủ cảm xúc, hành vi của bản thân… Đây là điều cần lưu ý trong quá trình rèn luyện nghiệp vụ sư phạm của sinh viên.
- Đối với nhóm kỹ năng D - bao gồm một kỹ năng là diễn đạt cụ thể, dễ hiểu - số điểm đạt được của sinh viên là 11,65, có nghĩa là kỹ năng này sinh viên đạt mức trung bình cao.
- Từ kết quả phân tích trên, chúng ta có thể nêu lên nhận định: KNGT của sinh viên trường CĐSP Quảng Trị chưa cao, chỉ đạt mức trung bình.
- Trên cơ sở các phát hiện đã trình bày ở trên chúng tôi đã xây dựng một hệ thống biện pháp tác động nhằm nâng cao năng lực giao tiếp của SV trường CĐSP Quảng Trị..
- 2) tăng cường trang bị và củng cố cho SV hệ thống tri thức về Tâm lý học nói chung và Tâm lý học giao tiếp nói riêng.
- 3) trang bị cho SV hệ thống cách thức tự đánh giá nội dung, nhu cầu và kỹ năng giao tiếp của bản thân.
- 4) tăng cường sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng tích cực, có khả năng phát huy mạnh mẽ vai trò chủ động, sáng tạo, tạo điều kiện cho SV rèn luyện giao tiếp..
- Để những biện pháp này phát huy hiệu quả, yêu cầu đặt ra là cần xác định các đặc điểm về nội dung, nhu cầu, kỹ năng giao tiếp của sinh viên ngay từ thời kỳ đầu họ mới bước chân vào trường sư phạm, trên cơ sở đó có những biện pháp tác động, điều chỉnh kịp thời, có những cách thức rèn luyện phù hợp.
- Hàng năm cần có sự khảo sát kiểm tra, đánh giá, xác định những nội dung GT, mức độ nhu cầu và kỹ năng giao tiếp để phát hiện những lệch lạc, thiếu hụt của chúng bộc lộ trong thực tế, nhờ đó có sự hướng dẫn, bổ sung, điều chỉnh và tìm ra hướng rèn luyện phù hợp..
- Yêu cầu thứ hai là mỗi giảng viên cần chú ý sử dụng các phương pháp dạy học theo hướng tăng cường vai trò của sinh viên trong quá trình học tập, coi trọng đúng mức.
- các buổi thảo luận, xêmina do sinh viên tự điều khiển..
- Các giảng viên Tâm lý học và Giáo dục học cần cố gắng tìm tòi, nghiên cứu, cấu trúc lại chương trình môn Tâm lý học và Giáo dục học nhằm tăng số tiết cho sinh viên thực hành, rèn luyện năng lực giao tiếp..
- Một yêu cầu khác là cần thường xuyên tổ chức các hình thức rèn luyện nghiệp vụ sư phạm, rèn luyện giao tiếp, có kế hoạch và đảm bảo tính hệ thống, thường xuyên để trở thành nề nếp, thói quen, thành nhu cầu thiết thân của mỗi sinh viên.
- Đồng thời, phải thường xuyên tổ chức các cuộc thi nghiệp vụ sư phạm giữa sinh viên cùng lớp, giữa các lớp, các khoa, tạo điều kiện cho sinh viên tham gia các liên hoan âm nhạc - thể dục - nghiệp vụ sư phạm liên trường một cách chu đáo, tích cực và có hiệu quả.
- Cần tạo điều kiện cho sinh viên tăng cường thực tế, dự giờ, tiếp xúc với học sinh và giáo viên phổ thông để họ tập trung quan sát, trải nghiệm, làm quen dần với hoạt động giao tiếp ở nhà trường phổ thông, để các em được tiếp xúc với những đối tượng giao tiếp thường xuyên và chủ yếu trong hoạt động nghề nghiệp sau này.
- Giúp sinh viên tăng cường rèn luyện những kỹ năng giao tiếp trong thực tiễn..
- Nhà trường, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên cần phối hợp để tổ chức các hoạt động giao tiếp, tạo điều kiện mở rộng phạm vi giao tiếp, tăng cường độ giao tiếp, cho sinh viên giao tiếp với đám đông… bằng cách tằng cường tổ chức các câu lạc bộ Văn học, câu lạc bộ Tiếng Anh, câu lạc bộ bạn yêu nhạc, dạ hội, các hội diễn văn nghệ, đêm thơ, đêm nhạc, hội thi thể dục thể thao….
- tổ chức cho sinh viên giao lưu với các cơ quan, đoàn thể, các trường cùng đóng trên địa bàn.
- thường xuyên tổ chức các buổi nói chuyện chuyên đề, các buổi đối thoại trực tiếp giữa sinh viên với lãnh đạo Nhà trường, Đoàn thanh niên, Hội sinh viên, với các giảng viên.
- Khi tổ chức các hoạt động giao tiếp và rèn luyện năng lực giao tiếp cho sinh viên phải chú ý đến những sắc thái riêng về đặc điểm giao tiếp của giới tính, khoá học và chuyên ngành đào tạo..
- Những kết quả của nghiên cứu cho phép đi đến kết luận rằng giao tiếp là một mặt không thể thiếu được trong quá trình học tập và rèn luyện ở nhà trường sư phạm của sinh viên.
- Giao tiếp của sinh viên sư phạm có những đặc thù riêng, thể hiện cụ thể là nhu cầu giao tiếp khá cao và chịu ảnh hưởng của thời gian theo học tại trường sư phạm, kỹ năng giao tiếp chỉ đạt mức trung bình, nội dung giao tiếp mang đặc trưng của lứa tuổi thanh niên, của hoạt động chủ đạo ở sinh viên là học tập và rèn luyện, liên quan mật thiết và gần gũi với yêu cầu đào tạo của sinh viên sư phạm.
- Các kết quả nghiên cứu cũng cho thấy nếu được quan tâm và có những biện pháp thích hợp thì hoàn toàn có thể nâng cao và hoàn thiện giao tiếp cho sinh viên, tạo dựng cho sinh viên sư phạm một công cụ hữu hiệu để thực hiện tốt các nhiệm vụ của nhà giáo dục.
- Dựa trên những kết quả này, các nhà giáo dục có thể lựa chọn những cách thức tác động phù hợp đến sinh viên nhằm phát triển nhu cầu giao tiếp, kỹ năng giao tiếp, mở rộng các nội dung giao tiếp để giao tiếp của các sinh viên ngày càng phong phú, đa dạng, nhiều chiều và đa lĩnh vực..
- [1] Hoàng Anh, Nguyễn Thạc (1991), Vài thực nghiệm về kỹ năng giao tiếp sư phạm của sinh viên có nhu cầu giao tiếp khác nhau, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Số 5..
- [2] Hoàng Anh (1992), Vấn đề giao tiếp sư phạm trong cấu trúc năng lực sư phạm, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Số 4..
- [3] Hoàng Anh, Vũ Kim Thanh (1995), Giao tiếp sư phạm, Hà Nội..
- [5] Nguyễn Thanh Bình (1991), Về nhu cầu của sinh viên sư phạm, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Số 6..
- [7] Ngô Công Hoàn (1997), Giao tiếp và ứng xử sư phạm, Nhà xuất bản Đại học Quốc gia Hà Nội..
- [9] Nguyễn Văn Lê (2006), Giao tiếp sư phạm, NXB Đại học Sư phạm, Hà Nội..
- [10] Lê Quang Sơn (1992), Giao tiếp sư phạm, Nội san ĐHSP ngoại ngữ Đà Nẵng, số 6/1992..
- [11] Trần Trọng Thuỷ (1988), Đặc điểm giao tiếp của học sinh đại học, Tạp chí Nghiên cứu giáo dục, Số 1, Hà Nội.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt