« Home « Kết quả tìm kiếm

Luận văn " Tiền tệ - Ngân hàng"


Tóm tắt Xem thử

- Những thay đổi của lãi suất.
- Những lý thuyết ban đầu về cầu tiền tệ như thuyết số lượng, không coi lãi suất như một nhân tố của cầu tiền giao dịch: Ví dụ, một người nhận trước một tờ séc 2500 USD mỗi tháng và sử dụng tổng số đó với tỷ lệ không đổi trong tháng (lượng tiền dùng đẻ giao dịch).
- Nếu lãi suất của trái phiếu kho bạc là 0,75% anh ta thu nhập thêm được USD)] mỗi tháng , hoặc 56,25 USD mỗi năm .Anh ta khômg thể chi tiêu trực tiếp trái phiếu kho bạc , song anh có đổi chúng thành tiền..
- Do đó ,anh ta sẽ cân nhắc , lợi ích của việc giữ tiền theo chi phí cơ hội được đo bằng lãi suất thị trường mà anh ta sẽ kiếm được do nắm giữ trái phiếu..
- Các nhà kinh tế nhấn mạnh rằng ,sự cân nhắc này cho thấy cầu tiền giao dịch phụ thuộc vào lãi suất .Một sự tăng trong lãi suất thị trường làm tăng chi phí cơ hội của lượng tiền giao dịch.
- Một sự giảm trong lãi suất thị trường tiền tệ sẽ làm giảm chi phí giữ tiền , các cá sẽ giữ số tiền lớn hơn ,tốc độ sẽ giảm.
- Do đó, cầu tiền giao dịch sẽ tỉ lệ nghịch với lãi suất thị trường, trái lại, tốc độ của tiền giao dịch sẽ tỉ lệ thuận với lãi suất thị trường..
- Thêm vào đó, những doanh nghiệp có thể có một giới hạn tín dụng với những ngân hàng , mà cho phép họ tiến hành những giao dịch với lượng tiền mặt và số dư tiền gửi Séc thấp .
- Những hộ gia đình thu nhập cao có thể dùng thẻ tín dụng của ngân hàng..
- Nếu không có thay đổi khác , một sự tăng lãi suất tiền tệ hoặc trong sự thuận tiện tự nhiên của đồng tiền sẽ khiến những hộ gia đình và nhà doanh nghiệp tăng lượng tiền tệ của họ và tăng lượng cầu tiền..
- Một sự giảm trong lãi suất tiền tệ hoặc trong sự thuận tiện tự nhiên sẽ khiến những hộ gia đình và doanh nghiệp giảm số dư tiền tệ của họ và lượng cầu tiền..
- Các tài sản càng trở nên lỏng nhiều hơn thì càng có nhiều người tiết kiệm chú tâm đến thu nhập về lãi suất tiền tệ.Cuối cùng một số cá nhân đặt tin tưởng.
- Thứ nhất, do nắm giữ tiền mặt không đem lại lãi suất nên nuế tiền gửi có phát séc có lãi suất tăng lên thì nhu cầu tiền mặt có thể giảm so với nhu cầu tiền gửi, dẫn đến C/D nhỏ đi..
- Thứ hai, nếu tiền gửi có thể phát séc có lãi suất giảm thì sẽ làm cho C/D tăng.
- Từ năm 1933 đến năm 1980 nhưng quy định của ngành ngân hàng cấm các ngân hàng thanh toán lãi suất đối với tiền gửi có thể phát séc.
- Các ngân hàng tác động đến quá trình cung ứng tiền tệ qua những quyết định giữ tiền dự trữ vượt quá và vay của ngân hàng trung ương.
- Các ngân hàng quyết định như thế nào về việc giữ bao nhiêu tiền dự trữ vượt quá so với tiền gửi..
- Các ngân hàng thường giữ tiền dự trữ vượt quá hay khoản dự trữ lớn hơn dự trữ bắt buộc không lớn.
- Yếu tố cơ bản chi phối các quyết định của các ngân hàng là lợi tức mong đợi từ khoản dự trữ vượt quá với lợi tức mong đợi từ những phương án sử dụng vốn khác.Do tiền dự trữ được gửi lại ngân hàng trung ương không có lãi suất, chi phí cơ hội của việc nắm giữ khoản dự trữ vượt quá là lãi suất thị trường, lãi suất mà các ngân hàng có thể thu được nhờ cho vay hay đầu tư vốn.
- Ví dụ: lãi suất thị trường cao vào đầu những năm 80 làm dự trữ vượt quá giảm đáng kể.
- Lãi suất thị trường giảm làm lãi suất vượt quá tăng lên, trong khi các yếu tố khác không đổi làm giảm dự trữ vượt quá: lãi suất thị trường giảm làm lãi suất vượt quá tăng lên.
- Nói cách khác, việc nắm giữ khoản dự trữ vượt quá của các ngân hàng tỷ lệ nghịch với lãi suất thị trường.
- NHTW yêu cầu ngân hàng phải giữ một khoản dự trữ nhất định nhưng nó không muốn các ngân hàng vay của NHTW với lãi suất chiết khấu để thoả mãn yêu cầu những dự trữ đó.
- Khi một ngân hàng thiếu tiền dự trữ, NHTW có thể đưa ra các khoản tiền phạt.
- Trong những trường hợp xấu ngân hàng có thể thất bại.
- Các ngân hàng sẵn sàng vay tại ngân hàng trung ương khi lãi suất thị trường mà các ngân hàng có thể thu được nhờ tiền cho vay hoặc các hoạt động đầu tư lớn hơn lãi suất chiết khấu.
- Các ngân hàng ít có nhu cầu vay của ngân hàng trung ương khi chênh lệch giữa lãi suất thị trường và lãi suất.
- Vì vậy, tiền vay chiết khấu của các ngân hàng tỷ lệ thuận với lãi suất thị trường và tỷ lệ nghịch với lãi suất chiết khấu..
- Các nhà kinh tế học đã đưa ra các tài liệu chứng tỏ rằng, khi chênh lệchgiữa lãi suất của tín phiếu kho bạc ba tháng và của khoản vay chiết khấu tăng lên, sẽ làm khối lượng cho vay chiết khấu tăng lên.
- Ngân hàng trung ương thường không khuyến khích mạnh mẽ các ngân hàng vay của NHTW..
- NHTW đã khuyến khích các ngân hàng vay.
- Các giao dịch này ảnh hưởng đến lãi suất của các thi trường nói trên.
- sự khác biệt và lãi suất.
- Việc mua trên thị trường mở có xu hướng làm giảm lãi suất nên được gọi là chính sách nới rộng.
- Chính sách chiết khấu, bao gồm việc đặt ra lãi suất chiết khấu và các khoản cho vay chiết khấu, là một công cụ quan trọng để kiểm soát cung tiền.
- Chúng ta có thể mô tả hiệu ứng giá cả một cự thay đổi trong lãi suất chiất khấu như sau: giả sử rằng NHTW tăng lãi suất chiết khấu, khi lãi suát chiết khấu tăng lên các ngân hàng sẽ giảm vay ở cửa sổ chiết khấu.
- Do vậy một sự tăng lên trong lãi suất chiết khấu làm giảm khối lượng vay chiết khấu do đó làm giảm cơ số tiền và cung tiền.
- Mức lãi suất chiết khấu cao hơn tạo ra áp lực đẩy lên các mức lãi suất ngắn hạn khác, khi các ngân hàng cố gắng huy động từ các nguồn khác như phát hành chứng nhận tiền gửi.
- Một sự giảm sút trong lãi suất chiết khấu khối lượng vay chiết khấu tăng lên, làm tăng cơ số tiền và cung tiền.
- Tuy nhiên không có gì đảm bảo răng các ngân hàng sẽ vay ở cửa sổ chiết khấu khi lãi suất chiết khấu giảm xuống.
- Nếu không có các khoản cho vay có lợi hay các cơ hội đầu tư tốt thì các ngân hàng có thể tăng vay chiết khấu..
- Những khoản cho vay này làm giảm chi phí của các ngân hàng về việc giữ tiền mặt dư thừa hay việc thanh toán một món nợ hay một khoản đầu tư.
- NHTW thường ra lệnh rằng, các ngân hàng phải giữ lại một phần trong số tiền gửi dưới dạng tiền mặt hay tiền gửi tại NHTW.
- Dự trữ có thể dưới dạng tiền mắt ở ngân hàng hay tiền gửi ở NHTW.
- Khoảng 90% các ngân hàng đảm ứng các.
- NHTW thường ít khi thay đổi dự trữ bắt buộc so với việc nó thay đổi lãi suất chiết khấu hay điều chỉnh nghiệp vụ thị trường mở.
- Để hạn chế việc tạo tiền quá mức của ngân hàng thương mại làm tăng tổng khối lượng tiền tệ trong nền kinh tế, NHTW quy định hạn mức tín dụng tối đa cho tong NHTM.
- Tuy nhiên khống chế hạn mức tín dụng có thể làm cho lãi suất thị trường tăng lên, làm giảm canh tranh giữa các NHTM, làm lệch lạc cơ cấu đầu tư của các NHTM , làm phát sinh các thị trường tài chính ngầm ngoài sự kiểm soát của NHTW, gây khó khăn về vốn cho các doanh nghiệp nhỏ.
- Quản lý lãi suất của các ngân hàng thương mại.
- Khi sử dụng các công cụ chính sách tiền tệ của NHTW (thị trường mở, chiết khấu, tỷ lệ dự trữ bắt buộc, hạn mức tín dụng) đều có tác dụng đến lãi suất cho vay của các NHTM đối với nền kinh tế.
- Trong đó, đặc biệt là lãi suất chiết khấu của NHTW tác động mạnh đến lãi suất cho vay của các NHTM, song khi các công cụ trên đây hoạt động chưa có hiệu quả, thì NHTW có thể trực tiếp quy định khung lãi suất hoặc trần lãi suất cho vay của các NHTM.
- tránh rủi ro bảo vệ quyền lợi của các ngân hàng, NHTW thường quy định mức lãi suất sàn tối đa cho tiền gửi và lãi suất trần tối thiểu cho tiền vay.
- bảo đảm quyền lợi cho khách hàng của NHTM, thì NHTW thường quy định ngược lại: mức lãi suất tối thiểu cho tiền gửi và mức tối đa cho tiền vay.
- NHTW muốn kiểm soát được lãi suất, bởi vì lãi suất có tác động mạnh đến tiết kiệm và đầu tư, qua đó tác động vào tăng trưởng kinh tế và giá cả..
- Tuy nhiên, kiểm soát lãi suất của các NHTM sẽ triệt tiêu cạnh tranh trong quá trình hoạt động của nó.
- Hiện nay các nước phát triển và đang phát triển đã và đang chuyển sang quá trình tự do hoá lãi suất ngân hàng..
- Thị trương tiền tệ tiếp tục nóng lên và xu hướng diễn biến của lãi suất.
- Trong thời gian qua thi trường tiền tệ tiếp tục nóng lên với những diễn biến khác nhau và nhiều lo ngại rằng lãi suất sẽ tăng lên..
- Ngân hàng ngoại thương Việt nam (VCB) là Ngân hàng thương mại (NHTM) nhà nước có quy mô lớn chiếm 30% thị phần vốn huy động của toàn bộ hệ thống ngân hàng từ trước tới nay, thường xuyên thừa vốn khả dụng, có lãi suất tiền gửi VNĐ thấp nhất.
- Đây là NHTM luôn bán buôn vốn lớn nhất trên thị trường tiền tệ, trúng thầu khối lượng lớn trên thị trường đấu thầu tín phiếu kho bạc Nhà nước thì từ vài tháng nay đã tăng lãi suất huy động vốn nội tệ (VNĐ) lên cao.
- Đặc biệt từ đầu tháng 8-2000 VCB đã tăng lãi suất phát hành kỳ phiếu VNĐ lên vào loại cao nhất trong hệ thông NHTM, lên cao hơn cả một số NHTM cổ phần.
- Lãi suất phát hành kỳ phiếu trả lãi sau kỳ hạn 6 tháng của VCB là 0,67%/tháng, kỳ hạn 9 tháng là 0,69%/tháng và 12 tháng là 0.7%/tháng.
- Trong khi đó các tháng đầu năm 2002 VCB cho vay vốn các nhánh hàng tốt nhất chỉ với lãi suất 0,60%/tháng.
- Mức lãi suất huy động vốn nói trên của VCB vào loại cao nhất trong vòng hơn 3 năm qua của chính ngân hàng này.
- thừa vốn khả dụng, đó là ngân hàng công thương Việt nam thì từ trung tuần tháng 7- 2000 cũng phải tăng cao lãi suất huy động đồng nội tệ.
- Đặc biệt ngân hàng này được nhà nước cho phép bắt đầu từ tháng 9-2000 phát hành trái phiếu huy động 500 tỷ đồng việt nam với lãi suất 8%/năm cho kỳ hạn 1 năm, 8,2% cho kỳ hạn 2 năm.
- Lãi suất huy động vốn nội tệ của hệ thống NHTM tăng nhanh và tăng cao, trong khi lãi suất huy động ngoại tệ, chủ yếu là USD là đứng nguyên và ở mức thấp trong vòng một năm qua và đứng ở mức rất thấp trong vòng 4 năm gần đây, cao nhất của kỳ hạn 2 năm chỉ có 2,2%/năm, tạo ra khoảng cách chênh lệch rất xa so với lãi suất tiền gửi nội tệ là 8,4%/năm, chênh lệc tới 4 lần.
- Điều đó cho thấy việc tăng lãi suất nội tệ chỉ là điều kiện cần chứ chưa đủ để tạo ra sự chuyển hoá từ ngoại tệ sang nội tệ.
- Tức là thời điểm cuối năm 2000 khi lãi suất tiền gửi USD nước ta lên tới 5-6%/năm, lãi suất nội tệ cũng chỉ 7-7,5%/năm, khi tốc độ tăng tiền gửi ngoại tệ tăng gấp 3 lần tốc độ tăng tiền gửi nội tệ.
- Công ty cho thuê tài chính ICBLC phát hành 30 tỷ đồng trái phiếu với lãi suất 8,4%/năm.
- Đặc biệt trong phiên thứ năm tổ chức tháng 7 2002 vừa qua, mặc dù đưa lãi suất lên 8,2%/năm nhưng không có kết quả trúng thầu..
- Các loại lãi suất chủ đạo của NHNN: lãi suất cơ bản, lãi suất tái cấp vốn lãi suất thị trường liên ngân hàng, lãi suất thi trường mở vẫn rất chệch choạc, hầu như không có tác động đến lãi xuất của các ngân hàng thương mại.
- Lãi suất cơ bản tăng không đáng kể, từ 0,6% lên 0,62%/năm, chỉ tăng 0,02%, trong khi đó cả lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi tăng từ tháng..
- Trong khi các NHTM thiếu vốn VNĐ, phải tăng lãi suất huy động các kỳ hạn 1 năm trở lên với lãi suât trên 8%/ năm, thì từ đầu tháng 7- 2000 đến nay họ lại trúng thầu mua 1700 tỷ đồng tín phiếu kho bạc chỉ với lãi suất 5,8%-5,9%/năm..
- Bởi vì họ tạm thời đầu tư vốn khả dụng vào giấy tờ có giá trị ngắn hạn này để bán lại cho ngân hàng nhà nước trên thị trường mở, với lãi suất có thể tương đương khi họ mua.
- Trong khi các NHTM cạnh tranh thu hút tiền gửi.Tăng lãi suất huyđộng vốn mở rộng mạng lưới, chỉ trong 8 tháng qua có 18 chi nhánh mới phụ thuộc của các NHTM được khai trương hoạt động ở TP Hồ Chí Minh, và 3 chi nhánh mới ở khu vực Hà Nội, tăng giờ giao dịch làm việc cả buổi trưa, ngày thứ 7 và chủ nhật, đưa ra nhiều hình thức khuyến mại đẩy mạnh việc lắp đặt hệ thống máy rút tiền tự động ATM.
- Lãi suất huy động vốn của các NHTM tăng cao nhưng vốn huy động vào rất chậm.
- Thực tế đó cho thấy dù lãi suất huy động có tăng cao hơn nữa khi rất khó huy động được bởi vì nguồn vốn tromg dân không phải là vô tận.
- Nhìn chung tạo lãi suất cho vay và lãi suất tiền gửi của hệ thống NHTM tăng cao từ đầu tháng 8-2002.
- Nhiều lo ngại rằng sẽ đẩy lãi suất tăng cao tác động tiêu cực đến tăng trưởng kinh tế song lý thuyết kinh tế hiện đại đã chỉ ra răng thị trường có sự tự điều chỉnh của nó, tất nhiên có tác Dđộng gián tiếp của NHTW bởi vì lãi suất tăng cao mà không huy động được vốn buộc các NHTM phải lựa chọn kỹ lưỡng các dự án khả thi cho vay, hạn chế cho vay các dự án có rủi ro cao, hạn chế các khoản nợ quá hạn tích cực giám sát chặt chẽ và đôn đốc các khoản cho vay đến hạn.
- đồng thời với lãi suất tiền vay caobuộc các doanh nghiệp phải tính toán kỹ lưỡng, thận trọng trước khi vay vốn đầu tư các dự án có lợi nhuận thấp hoặc không chắc ăn.Bêncạnh đó lãi suất tiền gửi cao nhiều người có vốn sẽ cân nhắc giữa việc bỏ vốn ra tự kinh doanh những dự án có lợi nhuận thấp bấp bênh với việc gửi tiền vào ngân hàng lấy lãi suất hấp dẫn và chắc ăn hơn….
- Trước hết NHNN đã vận dụng tương đối hiệu quả công cụ lãi suất vào việc điều hoà lưu thông tiền tệ..
- Trong nhưng năm qua từ đầu thập kỷ 90 đến nay NHNN đã kiên trì tái lập trạng thái lãi suất dương, khắc phục triệt để tình trạng lãi suất âm đã tồn đọng khá lâu ở nước ta trong nhứng năm 70 và 80.
- Nhờ vậy hệ thống ngân hàng Việt nam có tiền đề để vận dụng hiệu quả công cụ lãi suất..
- Tự do hoá tưng bước việc xác định lãi suất đối với các tổ chức tín dụng trong những năm qua là một biểu hiện sinh động về vai trò quan trọng của lãi suất đối với điều hoà lưu thông tiền tệ.
- Từ chỗ NHNN Việt nam quy định toàn bộ các mức lãi suất tiến tới chỗ NHNN Việt nam chỉ quy định một mức lãi suất trần..
- Trên cơ sở mức lãi suất trần đó các tổ chức tín dụng tự xác định mức lãi suất cụ thể của mình.
- Xoá bỏ nội dung bao cấp trong lãi suất nhằm hạn chế nhu cầu vốn giả tạo và tạo ra “sân chơi” bình đẳng trong nội bộ các NHTM quốc doanh giữa các ngân hàng quốc doanh và ngân hàng thương mại cổ phần, giữa doanh nghiệp quốc doanh và doanh nghiệp ngoài quốc doanh..
- Tái cấp vốn và lãi suất tái cấp vốn được NHNN Việt nam sử dụng là một công cụ điều tiết tổng lượng tiền hay là tổng phương tện thanh toán trong nền kinh tế..
- Tuy nhiên, do trong nền kinh tế Việt nam chưa lưu thông các loại thương phiếu, NHNN chưa có điều kiện thực hiện tái cấp vốn qua tái chiết khấu với việc các tổ chức tín dụng cầm cố các loại chứng từ có hgia trị như tín phiếu kho bạc, khế ước cho vay, sổ tiền gửi…lãi suất tái cấp vốn hiện nay băng 100%.
- lãi suất của các loại chứng từ có giá xin tái cấp vốn của các tổ chức thương mại có liên quan..
- Làm thế nào để phát huy mạnh hơn nữa vai trò điều hoà lưu thông của công cụ tái cấp vốn và lãi suất tái cấp vốn có ba vấn đề cần được giả quyết..
- Thứ hai cần điều chỉnh lãi suất vay mượn trong toàn bộ nền kinh tế quốc dân theo một trật tự nhất định dựa trên mức độ rủi ro của các loại vay mượn.
- Có như vậy mới có điều kiện cho NHNN sở dụng công lãi suất cụ tái cấp vốn tác động đến lượng tín dụng của các tổ chức tín dụng..
- Thông qua chính sác tiền tệ ngân hàng trung ương có thể góp phần quan trọng việc kiểm soát lạm phát nhằm thúc đẩy nền kinh tế phát triển.
- Những thay đổi của lãi suất………trang 5 1.1.5.
- Tiền mặt ở các ngân hàng dự trữ bắt buộc và khoản tiền chiết khấu………...trang 10.
- Ngân hàng trung ương điều tiết quan hệ cung cầu tiền tệ.
- Quản lý lãi suất ở các ngân hàng thương mại.
- Thị trương tiền tệ lại tiếp tục nóng lên và xu hướng diễn biến của lãi suất 4.2

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt