« Home « Kết quả tìm kiếm

Một số giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý xí nghiệp xây lắp điện


Tóm tắt Xem thử

- Đỗ Minh Châu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý xí nghiệp xây lắp điện LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT Quản trị kinh doanh Hà Nội – 2005 BỘ GIÁO DỤC VÀ ĐÀO TẠO TRƯỜNG ĐẠI HỌC BÁCH KHOA HÀ NỘI.
- Đỗ Minh Châu Một số giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý xí nghiệp xây lắp điện LUẬN VĂN THẠC SĨ KỸ THUẬT Quản trị kinh doanh NGƯỜI HƯỚNG DẪN KHOA HỌC: TS.
- Để mục tiêu đó được thực hiện đòi hỏi phải có sự lãnh đạo thống nhất của bộ máy quản lý nhằm kế hoạch hoá, tổ chức, phối hợp, kiểm tra và điều chỉnh việc kết hợp tối ưu các nguồn lực.
- Tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp là khâu đầu tiên và rất quan trọng của tổ chức doanh nghiệp, giúp doanh nghiệp đạt được mục tiêu của mình.
- Trong hoạt động quản lý, phần lớn nguyên nhân về quản lý không tốt đều xuất phát từ công tác tổ chức bộ máy thiếu hoàn hảo.
- Việc tổ chức bộ máy ảnh hưởng lớn đến kết quả đạt được của công tác quản lý, qua đó có tác động đến toàn bộ quá trình hoạt động của doanh nghiệp, bởi vì bộ máy quản lý là bộ phận đầu não cho ra những chủ trương, chiến lược, sách lược phát triển doanh nghiệp.
- Vì vậy, xem xét đánh giá hiệu năng bộ máy quản lý và tìm biện pháp cải tiến cho phù hợp với thực tế sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp là rất cần thiết.
- Là một doanh nghiệp nhà nước, Xí nghiệp Xây lắp điện đã nhiều lần cải tiến cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý nhằm nâng cao hiệu quả hoạt động của Xí nghiệp.
- Đặc biệt trong giai đoạn hiện nay Xí nghiệp đang tiến hành cổ phần hoá và chính thức đi vào hoạt động theo luật doanh nghiệp trong năm 2006 thì yêu cầu hoàn thiện bộ máy quản lý thực sự là cấp thiết.
- Chiến lược phát triển của Tổng Công ty Điện lực Việt giai đoạn 2001-2010 là : “Tiếp tục củng cố và hoàn thiện các bộ phận quản lý của Tổng Công ty và các đơn vị thành viên để đảm bảo điều hành nhanh, đáp ứng kịp thời cho sản xuất kinh doanh và đầu tư xây dựng ngày càng tốt hơn”.
- Trong kế hoạch đó, vấn đề cải tiến bộ máy quản lý của Xí nghiệp (năm 2006 là công ty cổ phần) đang là nhu cầu cấp bách và cần được ưu tiên giải quyết.
- Nhận thức được tầm quan trọng và sự cần thiết của cải tiến và hoàn thiện tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp, cũng như xuất phát từ nhu cầu thực tế, tôi quyết định nghiên cứu vấn đề: “Một số giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý ở Xí nghiệp Xây lắp điện” và chọn làm đề tài của luận văn thạc sỹ kinh tế.
- Trên cơ sở lý luận về quản lý và tổ chức bộ máy quản lý, tập hợp xử lý các số liệu, luận văn tập trung.
- Phân tích đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp Xây lắp điện, khẳng định những thành công, tồn tại và nguyên nhân.
- Đề xuất một số biện pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý của Xí nghiệp.
- Đối tượng: Nghiên cứu bộ máy quản lý của Xí nghiệp Xây lắp điện, trong đó tập trung vào nghiên cứu hệ thống chức năng nhiệm vụ.
- mô hình tổ chức bộ máy quản lý.
- cơ chế vận hành của bộ máy quản lý và tổ chức lao động bộ máy quản lý.
- Phạm vi: Luận văn tập trung nghiên cứu về bộ máy quản lý của Xí nghiệp Xây lắp điện thuộc Công ty Điện lực 1.
- Hệ thống hoá và hoàn thiện một số vấn đề về lý luận có liên quan đến việc tổ chức bộ máy quản lý của các doanh nghiệp.
- Phân tích, đánh giá thực trạng tổ chức bộ máy quản lý của Xí nghiệp Xây lắp điện, qua đó thấy được những tồn tại và tìm ra nguyên nhân của những tồn tại đó.
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý của Xí nghiệp Xây lắp điện.
- Ngoài lời mở đầu, kết luận, mục lục và danh mục các tài liệu tham khảo, nội dung của Luận văn được thể hiện qua 3 chương sau: Chương 1: Cơ sở lý luận về tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp Chương 2: Phân tích và đánh giá thực trạng bộ máy quản lý của Xí nghiệp Xây lắp điện.
- Chương 3: Một số giải pháp nhằm hoàn thiện bộ máy quản lý của Xí nghiệp Xây lắp điện.
- LuËn v¨n cao häc §ç Minh Ch©u 4 CHƯƠNG 1 CƠ SỞ LÝ LUẬN VỀ TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP .1.
- QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP VÀ NHỮNG NHÂN TỐ ẢNH HƯỞNG ĐẾN BỘ MÁY QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP .1.1.
- Hiện nay có nhiều cách giải thích thuật ngữ quản lý.
- Có ý kiến cho rằng quản lý là hành chính, là cai trị, ý kiến khác lại cho rằng quản lý là điều hành, điều khiển, chỉ huy.
- Quản lý được hiểu theo hai góc độ: Một là góc độ tổng hợp mang tính chính trị – xã hội.
- Theo góc độ chính trị, xã hội, quản lý là sự kết hợp giữa tri thức và lao động.
- Lịch sử xã hội loài người từ thời kỳ cổ đại đến thời đại văn minh cho thấy rõ, trong sự phát triển đó có 3 yếu tố nổi lên rõ nét là tri thức, lao động và quản lý.
- Trong ba yếu tố này, quản lý là sự kết hợp giữa tri thức và lao động.
- Sự kết hợp đó được biểu hiện trước hết ở cơ chế quản lý, ở chế độ, chính sách, biện pháp quản lý và ở nhiều khía cạnh tâm lý xã hội, nhưng tựu trung lại là quản lý phải biết tác động bằng cách nào đó để người bị quản lý luôn luôn hồ hởi, phấn khởi, đem hết năng lực và trí tuệ của mình để sáng tạo ra lợi ích cho mình, cho Nhà nước và cho xã hội.
- Theo góc độ hành động, quản lý là điều khiển.
- Theo khái niệm này quản lý có ba loại.
- Loại này được gọi là quản lý sinh học, thiên nhiên, môi trường.
- Loại hình này được gọi là quản lý kỹ thuật.
- Loại thứ ba là việc con người điều khiển con người (quản lý nhà nước, Đảng, đoàn thể, tổ chức chính trị, kinh tế, văn hoá.
- Đó là quản lý xã hội.
- Quản lý xã hội được Các Mác coi là chức năng đặc biệt được sinh ra từ tính chất xã hội hoá của lao động.
- Từ những vấn đề trên, ta có thể hiểu : Quản lý là sự tác động, chỉ huy, điều khiển có hướng đích của chủ thể quản lý lên đối tượng và khách thể quản lý nhằm đạt được mục tiêu đặt ra trong điều kiện biến động của môi trường.
- Với định nghĩa này, quản lý phải bao gồm các yếu tố sau.
- Phải có một chủ thể quản lý tạo ra các tác động và phải có một đối tượng quản lý tiếp nhận các tác động của chủ thể quản lý tạo ra.
- Chủ thể phải thực hành việc tác động lên đối tượng quản lý và khách thể quản lý.
- Chủ thể có thể là một người hay nhiều người, còn đối tượng quản lý có thể là người (một hay nhiều người) hoặc giới vô sinh (máy móc, thiết bị, đất đai, thông tin.
- Khi nói đến quản lý là nói đến sự tác động hướng đích.
- Hoạt động quản lý là một hoạt động chủ quan có ý thức, có tính năng động, sáng tạo, linh hoạt của một con người, một tập thể người quản lý.
- Trong các loại quản lý có quản lý doanh nghiệp.
- Quản lý doanh nghiệp là quá trình tác động một cách có hệ thống, có tổ chức, có hướng đích của bộ máy quản trị doanh nghiệp lên tập thể những người lao động trong doanh LuËn v¨n cao häc §ç Minh Ch©u 6 nghiệp, nhằm sử dụng mọi tiềm năng và cơ hội để thực hiện một cách tốt nhất mọi hoạt động sản xuất kinh doanh của doanh nghiệp, nhằm đạt được mục tiêu đề ra theo đúng luật định và thông lệ xã hội.
- Bộ máy quản lý là với tư cách là cơ quan điều khiển hoạt động của toàn bộ doanh nghiệp bao gồm cả khâu sản xuất kinh doanh trực tiếp cũng như khâu phù trợ, phục vụ, cả hoạt động sản xuất tại doanh nghiệp cũng như hoạt động tiếp thị ngoài dây chuyền sản xuất, cả hệ thống tổ chức quản lý cũng như hệ thống các phương thức quản lý của doanh nghiệp.
- Bộ máy quản lý là lực lượng vật chất để chuyển những ý đồ, mục đích, chiến lược kinh đoanh của doanh nghiệp thành hiện thực, biến những nỗ lực chủ quan của mỗi thành viên trong doanh nghiệp thành hiệu quả sản xuất kinh doanh.
- Bộ máy quản lý thường được xem xét trên 3 mặt.
- Cơ cấu tổ chức bộ máy - Lực lượng lao động quản lý để thực hiện các chức năng, nhiệm vụ của bộ máy.
- Tổ chức bộ máy quản lý là dựa trên những chức năng, nhiệm vụ đã xác định của bộ máy quản lý để sắp xếp về lực lượng, bố trí về cơ cấu, xây dựng mô hình và làm cho toàn bộ hệ thống quản lý của doanh nghiệp hoạt động như một chỉnh thể có hiệu lực nhất.
- Tổ chức bộ máy quản lý cũng đồng thời là việc tổ chức các khâu, các bộ phận quản lý, phân công nhiệm vụ quyền hạn và chỉ rõ vị trí của từng quản trị viên các cấp trong hệ thống quản lý của doanh nghiệp.
- Trên thực tế, khó có thể phân biệt hai khái niệm bộ máy quản lý và tổ chức bộ máy quản lý.
- Khi hình thành bộ máy quản lý cũng đồng thời là quá trình tổ chức các lực lượng quản lý và phân chia chức trách theo ý đồ của bộ tham mưu của doanh nghiệp.
- Tổ chức bộ máy quản lý là xét về trạng thái LuËn v¨n cao häc §ç Minh Ch©u 7 động, là sự vận động của cả hệ thống quản lý trong không gian và thời gian, hướng vào những mục tiêu quản lý đã vạch ra.
- Tổ chức bộ máy quản lý chính là sự bắt đầu sự vận hành của bộ máy quản lý, và không tách rời mục tiêu và nhiệm vụ của sản xuất kinh doanh.
- Những nhân tố ảnh hưởng đến bộ máy quản lý doanh nghiệp.
- Mục đích, chức năng hoạt động của doanh nghiệp.
- LuËn v¨n cao häc §ç Minh Ch©u 8 Cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp chịu ảnh hưởng bởi mục tiêu, chức năng hoạt động của doanh nghiệp.
- Quy mô của doanh nghiệp.
- Quy mô của doanh nghiệp ảnh hưởng trực tiếp đến cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp.
- Doanh nghiệp có quy mô càng lớn thì cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị của doanh nghiệp càng phức tạp.
- Kỹ thuật sản xuất ảnh hưởng LuËn v¨n cao häc §ç Minh Ch©u 9 trực tiếp đến cơ cấu tổ chức sản xuất của doanh nghiệp, và thông qua đó tác động trực tiếp đến cơ cấu tổ chức bộ máy quản lý doanh nghiệp.
- Công nghệ chế tạo sản phẩm có ảnh hưởng rất lớn đến cơ cấu tổ chức bộ máy quản trị doanh nghiệp.
- Hình thức pháp lý của doanh nghiệp.
- Tổng công ty nhà nước và các doanh nghiệp độc lập có quy mô lớn, có cơ cấu tổ chức quản lý như sau: HĐQT, Ban kiểm soát, Tổng giám đốc hoặc Giám đốc và bộ máy giúp việc.
- Cơ chế quản lý vĩ mô của nhà nước.
- NỘI DUNG CỦA TỔ CHỨC BỘ MÁY QUẢN LÝ DOANH NGHIỆP .2.1.
- Các chức năng và lĩnh vực quản lý doanh nghiệp.
- Quản lý doanh nghiệp bao gồm nhiều nội dung và nhiều cách tiếp cận khác nhau, do vậy phải phân chia, quy nạp vấn đề quản lý thành những khái niệm nhất định để có được tiếng nói chung.
- Căn cứ vào quá trình quản lý, người ta phân chia quản lý doanh nghiệp thành các chức năng quản lý.
- Căn cứ LuËn v¨n cao häc §ç Minh Ch©u 11 vào các nội dung quản lý, người ta phân chia quản lý doanh nghiệp thành các lĩnh vực quản lý.
- Chức năng quản lý : Chức năng quản lý là những hoạt động riêng biệt của quản trị, thể hiện những phương hướng tác động của quản trị gia đến các lĩnh vực quản trị doanh nghiệp.
- Lĩnh vực quản lý : Lĩnh vực quản lý được hiểu như các hoạt động quản trị khi nó được thiết lập và sắp xếp theo nội dung quản lý gắn liền với các bộ phận của doanh nghiệp, có người chỉ huy và được phân cấp phân quyền trong việc ra các quyết định quản lý.
- Nếu các chức năng quản lý là các hoạt động trong một quá trình quản lý thì các lĩnh vực quản lý là cách tổ chức để thực hiện các hoạt động kinh doanh cụ thể – gắn với quá trình kinh doanh của từng doanh nghiệp.
- Mặt khác, các chức năng quản lý được xác định có tính chất nguyên lý, trong khi các lĩnh vực quản lý thì gắn chặt với các điều kiện hoạt động kinh doanh cụ thể của từng doanh nghiệp.
- Số lượng, hình thức tổ chức các lĩnh vực quản lý còn phụ thuộc vào quy mô doanh nghiệp, vào ngành nghề kinh doanh, các các yếu tố ngoại lai khác.
- Các chức năng quản lý.
- Khái niệm “chức năng quản lý” gắn liền với sự xuất hiện và tiến bộ của phân công – hợp tác lao động trong hoạt động thực tiễn của một tập thể người lao động.
- Nhưng ngay cả khi con người đã tổ chức các nhà máy khổng lồ, đạt được các tiến bộ to lớn về kỹ thuật như chế tạo đầu máy xe lửa, sử dụng điện năng … thì khoa học quản lý vẫn chưa được quan tâm.
- Phải đến đầu thế kỷ 20, những nghiên cứu về khoa học quản lý mới hệ thống hoá và đưa ra cách phân loại các chức năng quản trị.
- Bản thân các cách phân loại của các nhà khoa học cũng không hoàn toàn thống nhất và họ đưa ra nhiều đề xuất về nội dung và phân loại các chức năng quản lý.
- Chức năng kiểm tra: Kiểm tra là một chức năng có liên quan đến mọi cấp quản lý để duy trì hoạt động quản lý đúng hướng, đo lường các sai lệch nảy sinh so với các mục tiêu và kế hoạch đã định và đánh giá đúng kết quả của hệ thống.
- Ngoài Henry Fayol, các chuyên gia khác nhau còn đưa ra những lý thuyết khác nhau về hệ thống các chức năng quản lý.
- Theo các nhà quản lý thuộc tổ chức UNESCO, có 8 chức năng: xác định nhu cầu, thẩm định và phân tích dữ liệu, xác định mục tiêu, kế hoạch hoá , triển khai công việc, điều chỉnh, đánh giá, sử dụng liên hệ ngược và tái xác định các vấn đề cho quá trình quản lý tiếp theo.
- Các học giả và các nhà quản lý ở Việt Nam đã thống nhất các chức năng quản lý gồm : kế hoạch, tổ chức, phối hợp, kiểm tra, điều chỉnh.
- Hệ thống các chức năng quản lý trên tác động qua lại với nhau và quy định lẫn nhau.
- Sự phân loại một cách khoa học các chức năng quản lý cho phép thực hiện được ở phạm vi rộng, sự phân công lao động một cách hợp lý dựa vào việc chia quá trình quản lý thành những bộ phận hợp thành.
- Sự phân loại như thế còn giúp cho việc tiêu chuẩn hoá và thống nhất hoá các quá trình quản lý, tạo điều kiện áp dụng những kinh nghiệm tiên tiến trong lao động quản lý, và đưa các phương tiện kỹ thuật hiện đại vào thực tiễn quản lý.
- Đây là sự phân loại chức năng quản lý theo nội dung quản lý.
- Lĩnh vực quản lý được phân định phụ thuộc vào nhiều yếu tố : truyền thống quản trị, các yếu tố xã hội và cơ chế kinh tế, quy mô cũng như đặc điểm kinh tế – kỹ thuật của doanh nghiệp.
- Nó gắn liền với mỗi quốc gia, mỗi vùng cụ thể và sự tiến bộ về nhận thức khoa học quản lý.
- Có thể nói lĩnh vực quản lý chính là sự phân chia chức năng quản lý theo nội dung tác động.
- Về cơ bản, các lĩnh vực quản lý trong doanh nghiệp gồm.
- Nghiên cứu thiết kế loại sản phẩm định sản xuất - Lựa chọn công nghệ chế tạo sản phẩm - Lựa chọn loại hình sản xuất - Tổ chức lao động và bộ máy quản lý - Tổ chức kiểm tra sản xuất và kiểm tra chất lượng - Tổ chức cung ứng và dự trữ cho dây chuyền sản xuất - Điều hành quá trình sản xuất theo thiết kế và quy trình đã định * Lĩnh vực marketing: gồm các nhiệm vụ như : Thu thập các thông tin về thị trường, hoạch định chính sách sản phẩm, hoạch định chính sách giá cả, hoạch định chính sách phân phối, hoạch định chính sách hỗ trợ tiêu thụ.
- Lĩnh vực nhân sự: bao gồm các nhiệm vụ : Tuyển dụng nhân sự, bố trí nhân sự, đánh giá nhân sự, phát triển nhân viên (đào tạo, bồi dưỡng, đề bạt), thù lao, quản lý nhân sự thông qua hồ sơ dữ liệu nhân sự, qua thống kê hoạt động của nhân viên, và hỗ trợ đời sống.
- Lĩnh vực kỹ thuật: bao gồm tất cả những công việc liên quan đến chuẩn bị kỹ thuật cho sản xuất, chuyển giao công nghệ, quản lý quy phạm, quy trình kỹ thuật, tham gia và trực tiếp xây dựng tiêu chuẩn kỹ thuật, quản lý máy móc, thiết bị, nghiên cứu phát triển kỹ thuật, ứng dụng phương pháp công nghệ mới, thiết kế sản phẩm mới, đề ra chiến lược công nghệ, xây dựng các định mức sử dụng công suất thiết bị, năng lượng, vật tư,

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt