« Home « Kết quả tìm kiếm

Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp và kết cấu thị trường cạnh tranh


Tóm tắt Xem thử

- QUYỀN TỰ DO CẠNH TRANH.
- CỦA DOANH NGHIỆP VÀ KẾT CẤU THỊ TRƯỜNG CẠNH TRANH.
- Từ khóa: Cạnh tranh, độc quyền, quyền tự do cạnh tranh, thị trường cạnh tranh tự do, thị trường cạnh tranh hữu hiệu..
- Kinh tế học đã chứng minh, cạnh tranh và độc quyền đều có ưu và nhược điểm.
- Nếu đề cao quá mức cạnh tranh sẽ dẫn đến loại bỏ doanh nghiệp lớn, từ đó không thể tận dụng được lợi thế của kinh tế quy mô, đồng thời làm suy giảm sức cạnh tranh của một quốc gia do không thể hình thành được doanh nghiệp lớn, đủ sức cạnh tranh trên thị trường quốc tế.
- Độc quyền có thể khắc phục được hạn chế của cạnh tranh nhưng nếu không được kiểm soát sẽ dẫn đến hiện tượng tăng giá bán, giảm sản lượng, chậm đổi mới kỹ thuật…, từ đó gây thiệt hại cho người tiêu dùng và toàn bộ nền kinh tế.
- Kết hợp ưu điểm của cạnh tranh và độc quyền để tạo ra kết cấu thị trường cạnh tranh hữu hiệu là trào lưu phổ biến hiện nay, được đa số các nước trên thế giới ủng hộ.
- Trong phạm vi bài viết này, tác giả phân tích và đi đến kết luận rằng, việc thừa nhận doanh nghiệp có quyền tự do cạnh tranh là để hình thành kết cấu thị trường cạnh tranh hữu hiệu, không phải để hình thành kết cấu thị trường cạnh tranh tự do.
- Nói cách khác, quyền tự do cạnh tranh không nên được hiểu đồng nhất với kết cấu thị trường cạnh tranh tự do, có như vậy mới đảm bảo thực thi hiệu quả chính sách cạnh tranh quốc gia..
- Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp.
- Ở nước ta, quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp được quy định ngay từ khi Luật Cạnh tranh đầu tiên được ban hành..
- Điều 4 Luật Cạnh tranh năm 2004 quy định:.
- “Doanh nghiệp được tự do cạnh tranh trong khuôn khổ pháp luật.
- Nhà nước bảo hộ quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh”.
- Quyền này tiếp tục được quy định tại Điều 5 Luật Cạnh tranh năm 2018, theo đó “Doanh nghiệp có quyền tự do cạnh tranh theo quy định của pháp luật.
- Nhà nước bảo đảm quyền cạnh tranh hợp pháp trong kinh doanh”.
- Vấn đề đặt ra là cần hiểu quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp là gì, quyền này bao gồm những nội dung nào?.
- Khi khẳng định doanh nghiệp có quyền tự do cạnh tranh có nghĩa là doanh nghiệp được tự do lựa chọn hành vi và phương thức cạnh tranh, miễn là những hành vi và phương thức ấy phù hợp với quy định của pháp luật.
- Trên phương diện hành vi cạnh tranh, chính vì tự do cạnh tranh là một trong những nội dung cấu thành quyền tự do kinh doanh của doanh nghiệp, nên doanh nghiệp được thực hiện bất cứ hành vi nào không bị pháp luật cấm.
- Trên cơ sở quan điểm đó, Luật Cạnh tranh đã quy định bảy nhóm hành vi cạnh tranh không lành mạnh bị cấm, tạo cơ sở pháp lý để doanh nghiệp thực hiện quyền tự do cạnh tranh trong kinh doanh..
- (vii) Các hành vi cạnh tranh không lành mạnh khác bị cấm theo quy định của pháp luật..
- Ngoài bảy nhóm hành vi nêu trên, doanh nghiệp có quyền lựa chọn bất cứ hành vi cạnh tranh nào để thực hiện trong quá trình sản xuất, kinh doanh của mình.
- Nhà nước phải tôn trọng và bảo vệ các hành vi cạnh tranh hợp pháp của doanh nghiệp..
- Tương tự như vậy, pháp luật quy định các hành vi thỏa thuận hạn chế cạnh tranh bị cấm như thỏa thuận phân chia khách hàng, phân chia thị trường tiêu thụ, nguồn cung cấp hàng hóa, cung ứng dịch vụ, thỏa thuận thông đồng trong đấu thầu… Đối với doanh nghiệp có vị trí thống lĩnh hoặc vị trí độc quyền, pháp luật quy định cấm doanh nghiệp lạm dụng sức mạnh thị trường để thực hiện các hành vi gây tổn hại hoặc hạn chế cạnh tranh như phân biệt đối xử về giá, bán dưới giá, từ chối giao dịch, bán kèm.
- mọi hành vi cạnh tranh khác của doanh nghiệp hoặc nhóm doanh nghiệp đều được coi là hợp pháp và được tự do thực hiện..
- Trên phương diện phương thức cạnh tranh, doanh nghiệp có thể lựa chọn cạnh tranh trực tiếp hoặc gián tiếp.
- Theo đó, cạnh tranh trực tiếp được hiểu là cạnh tranh được thực hiện trên cơ sở so sánh tương quan giữa các đối thủ trên thị trường, thông qua các hình thức như giảm giá bán, nâng cao chất.
- cạnh tranh gián tiếp là cạnh tranh thông qua các hình thức tác động vào người tiêu dùng, qua đó chiếm lĩnh thị phần trên thị trường liên quan như quảng cáo để lôi kéo khách hàng, khuyến mại, cung cấp cho người tiêu dùng các dịch vụ gia tăng…, làm cho đối thủ cạnh tranh bị mất thị phần hoặc gặp khó khăn trong việc mở rộng sản xuất kinh doanh, cung ứng dịch vụ.
- Các phương thức cạnh tranh được điều chỉnh bởi các luật chuyên ngành như Luật Quảng cáo, Luật Thương mại… Doanh nghiệp được sử dụng bất cứ phương thức cạnh tranh nào để có thể giành chiến thắng trên thị trường, miễn là phương thức ấy phù hợp với quy định của pháp luật và không vi phạm các chuẩn mực đạo đức kinh doanh..
- Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp là một biểu hiện của quyền tự do kinh doanh - một nguyên tắc căn bản và cốt lõi nhất của kinh tế thị trường.
- Chính vì vậy, đối với bất cứ nền kinh tế thị trường nào, việc thừa nhận và bảo hộ quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp luôn là một đòi hỏi tất yếu và được xem là nguyên tắc hiến định, đồng thời luôn được ghi nhận trong Luật Cạnh tranh..
- Kết cấu thị trường cạnh tranh tự do Thị trường cạnh tranh tự do là khái niệm được hiểu theo hai nghĩa sau:.
- Thứ nhất, thị trường cạnh tranh tự do được hiểu là trạng thái thị trường không có sự can thiệp của Nhà nước và các yếu tố cung – cầu được tự do hoạt động..
- Thứ hai, thị trường cạnh tranh tự do được hiểu là trạng thái thị trường không có độc quyền, cũng không có doanh nghiệp có sức mạnh thị trường đủ lớn để có thể thực hiện được các hành vi lũng đoạn.
- nghiệp vừa và nhỏ để các hoạt động cạnh tranh được diễn ra dễ dàng..
- Kết cấu thị trường cạnh tranh tự do không có sự can thiệp của Nhà nước.
- Chính vì vậy, thị trường cạnh tranh tự do tự có thể điều chỉnh được mối quan hệ giữa người mua và người bán, giữa doanh nghiệp, thị trường và người tiêu dùng.
- Tuy nhiên, sự phát triển đa dạng và phức tạp của các quan hệ trên thương trường với sự đan xen ngày càng chặt chẽ của nhiều dạng lợi ích đã làm nổi bật sự bất lực của bàn tay vô hình trong việc điều tiết cạnh tranh trên thương trường.
- Mô hình cạnh tranh tự do đã không còn là hình thức cạnh tranh lý tưởng được xưng tụng và áp dụng trong thực tế.
- Mặc dù vậy, giá trị lịch sử của mô hình đó vẫn còn sống mãi trong quan niệm và trong ý thức của loài người khi thiết kế các mô hình thị trường hoặc mô hình cạnh tranh trong thực tế của đời sống kinh tế - xã hội hiện đại 1.
- Kết cấu thị trường cạnh tranh tự do có sự can thiệp của Nhà nước.
- Lý luận cạnh tranh có ảnh hưởng rất quan trọng đối với chính sách cạnh tranh của các nước trên thế giới.
- Các học giả này thực hiện phân tích thông qua mối quan hệ nhân quả kết cấu thị trường, hành vi doanh nghiệp và kết quả thị trường, cho rằng kết cấu thị trường bao gồm bốn hình thức: cạnh tranh hoàn toàn 4 , cạnh tranh mang tính độc quyền, độc quyền đầu sỏ và độc quyền hoàn toàn.
- Cạnh tranh hoàn toàn là kết cấu thị trường có các đặc điểm như số lượng người mua và người bán rất lớn, sản phẩm của các nhà sản xuất có tính tương đồng, không tồn tại rào cản gia nhập, thông tin thị trường bảo đảm đầy đủ.
- Cạnh tranh mang tính độc quyền là kết cấu thị trường mà ở đó có nhiều doanh nghiệp cùng sản xuất hoặc bán các sản phẩm có sự khác biệt về chất lượng, mẫu mã và nhãn hiệu, mỗi nhà sản xuất trở thành chủ thể độc quyền đối với một hoặc một số đặc tính của sản phẩm..
- Độc quyền đầu sỏ 5 là kết cấu thị trường ở đó một số doanh nghiệp lớn trong ngành chiếm thị phần đáng kể, giữa các doanh nghiệp vừa tồn tại cạnh tranh khốc liệt vừa phụ thuộc lẫn nhau, doanh nghiệp khi đưa ra quyết sách kinh doanh buộc phải xem xét tới phản ứng.
- của các doanh nghiệp khác.
- Trường phái Harvard cho rằng, kết cấu thị trường quyết định hành vi của doanh nghiệp, đến lượt nó, hành vi của doanh nghiệp sẽ dẫn đến kết quả thị trường nhất định 6 .
- Nếu mức độ tập trung của một ngành quá cao hoặc rào cản gia nhập quá cao đều có khả năng dẫn đến kết quả thị trường xấu, tức là làm suy yếu cạnh tranh thị trường, tạo ra lợi nhuận siêu ngạch và méo mó sự phân phối tài nguyên.
- Có thể nói, quan điểm của trường phái Harvard chú trọng điều chỉnh trạng thái thị trường nhiều hơn là điều chỉnh hành vi cạnh tranh, hướng đến hình thành kết cấu thị trường cạnh tranh hoàn toàn hoặc ít nhất là.
- 4 Về khái niệm cạnh tranh hoàn toàn, có tài liệu gọi là cạnh tranh hoàn hảo.
- Tác giả cho rằng, đây là kết cấu thị trường mà ở đó có nhiều người mua và nhiều người bán, sản phẩm đồng nhất, doanh nghiệp tự do gia nhập và ra khỏi thị trường, sự hiểu biết và tính cơ động rất cao, từ đó dẫn đến kết quả là thị trường chỉ có cạnh tranh, không tồn tại độc quyền nên gọi là cạnh tranh hoàn toàn thì chính xác hơn.
- Nếu gọi là cạnh tranh hoàn hảo rất dễ dẫn đến hiểu lầm, cho rằng đây là kết cấu thị trường tốt nhất, vì nó hoàn hảo.
- Về bản chất, đây là kết cấu thị trường chỉ có vài doanh nghiệp lớn cùng kinh doanh.
- Giữa các doanh nghiệp này không hề tồn tại liên minh độc quyền, thay vào đó họ vẫn cạnh tranh với nhau và chịu ảnh hưởng lẫn nhau về việc kiểm soát giá và chất lượng dịch vụ.
- cạnh tranh mang tính độc quyền, không ủng hộ và khuyến khích kết cấu thị trường độc quyền đầu sỏ và độc quyền hoàn toàn..
- Kết cấu thị trường cạnh tranh hữu hiệu Cạnh tranh hữu hiệu là khái niệm để chỉ kết cấu thị trường cạnh tranh có thể mang lại kết quả tốt nhất và khả thi nhất cho cả doanh nghiệp và thị trường..
- Bởi vì, nếu quá chú trọng vào bảo vệ doanh nghiệp nhỏ và vừa, không thừa nhận sự tồn tại của các doanh nghiệp lớn thì các doanh nghiệp trong nước sẽ không thể có sức cạnh tranh quốc tế và sẽ không phát huy được tác dụng của kinh tế quy mô.
- Trường phái Chicago cho rằng, lợi nhuận độc quyền là kết quả của cạnh tranh thị trường, doanh nghiệp có quy mô lớn là kết quả của sự tiến bộ kỹ thuật và sự tiến hóa tự nhiên của tổ chức.
- Chẳng hạn, bản thân hành vi định giá lũng đoạn của doanh nghiệp sẽ thúc đẩy việc gia nhập thị trường của các đối thủ cạnh tranh tiềm năng.
- hoặc việc ấn định giá bán lại sẽ có lợi đối với việc tăng cường sự cạnh tranh giữa các nhãn hiệu và ngăn ngừa hành vi “hưởng lợi miễn phí” (free-rider).
- Đối với tập trung kinh tế, ngoài trường hợp cá biệt liên quan đến tập trung quá mức, cơ quan quản lý cạnh tranh không cần thiết phải can thiệp vào kết cấu thị trường.
- Thứ nhất, thực tế cho thấy độc quyền và cạnh tranh đều có tính hai mặt.
- Trên phương diện cạnh tranh, không thể phủ nhận cạnh tranh có vai trò tối ưu hóa.
- phân phối tài nguyên, giảm giá thành, khuyến khích sáng tạo…, nhưng nếu quá đề cao cạnh tranh sẽ dẫn đến cạnh tranh tự do quá mức, không có lợi đối với việc nâng cao sức cạnh tranh của ngành và của doanh nghiệp, kết quả sẽ ảnh hưởng đến sức cạnh tranh quốc gia.
- Khi đó nước Mỹ chịu ảnh hưởng của tư tưởng tự do kinh tế và dân chủ kinh tế, cơ quan tư pháp Mỹ chủ trương “bảo vệ cạnh tranh mà không bảo vệ chủ thể cạnh tranh” 9 , không ngần ngại hy sinh hiệu quả kinh tế để có được cạnh tranh tự do.
- Thực tiễn tư pháp Hoa Kỳ thời kỳ này cho thấy, Tòa án đã nhiều lần đưa ra phán quyết về việc phân tách một số công ty có sức mạnh thị trường, điển hình là Công ty Northern Securities, Công ty Standard Oil, Công ty Atlantic Telephone and Telegraph… Nhiều học gia cho rằng, đây chính là nguyên nhân dẫn đến sự lép vế về quy mô và thành tích thị trường của các doanh nghiệp Hoa Kỳ so với các doanh nghiệp Nhật Bản và Tây Âu trong quá trình cạnh tranh quốc tế những năm 70, 80 của thế kỷ trước.
- Nhận thức được vấn đề này, sau đó Chính phủ Mỹ đã điều chỉnh chính sách cạnh tranh, không xem cạnh tranh tự do là mục tiêu hàng đầu nữa mà thay vào đó là chính sách cạnh tranh hữu hiệu theo trường phái Chicago..
- Thứ hai, do cạnh tranh và độc quyền đều có hai mặt ưu điểm và nhược điểm nên việc đồng thời phát huy vai trò tổng hợp của hai yếu tố này là nhu cầu tất yếu.
- Tuy nhiên, vấn đề là giữa độc quyền và cạnh tranh luôn tồn tại “xung đột Marshall” (Marshall Dilema), tức là trong quá trình tìm kiếm kinh tế quy mô, doanh nghiệp do tập trung sản xuất sẽ dẫn đến xuất hiện độc quyền, mà độc quyền là sự phủ định của cạnh tranh, cuối cùng làm cho giá cả trên thị trường chịu sự khống chế.
- nhân tạo và toàn bộ nền kinh tế mất đi hoạt lực cạnh tranh.
- Cạnh tranh hữu hiệu thực chất là sự dung hòa tối ưu giữa kinh tế quy mô và hoạt lực cạnh tranh, từ đó có thể tối ưu hóa việc phân phối tài nguyên và nâng cao hiệu suất kinh tế..
- Hiện nay, đa số các quốc gia có nền kinh tế thị trường phát triển đều đi theo trường phái Chigaco và đã thu được những kết quả nhất định trong chính sách cạnh tranh.
- Quyền tự do cạnh tranh của doanh nghiệp không đồng nhất với kết cấu thị trường cạnh tranh tự do.
- Những phân tích ở trên cho thấy, trường phái Harvard cổ vũ cho cạnh tranh tự do, không ủng hộ doanh nghiệp độc quyền;.
- trong khi đó trường phái Chicago cổ vũ cho cạnh tranh hữu hiệu, không phủ nhận cạnh tranh tự do cũng không phủ nhận độc quyền;.
- Khi thừa nhận doanh nghiệp có quyền tự do cạnh tranh không có nghĩa là chúng ta thừa nhận theo đuổi hình thành kết cấu thị trường cạnh tranh tự do, thay vào đó, tự do cạnh tranh là để hình thành kết cấu thị trường cạnh tranh hữu hiệu.
- Tuy nhiên, trong thực tế, đã có có thời kỳ chúng ta lúng túng trong việc giải quyết mối quan hệ giữa hai khái niệm này, điều này có thể nhận thấy qua vụ việc cạnh tranh của công ty xăng dầu hàng không Vinapco, xảy ra vào đầu năm 2008 1 .
- Ngược lại, Pacific Airlines viện lý do quan hệ giữa Vinapco và Vietnam Airlines, cho rằng với tư cách là công ty con của Vietnam Airlines, Vinapco đã thực hiện hành vi phân biệt đối xử về giá, từ đó làm cho Pacific Airlines ở vào vị trí cạnh tranh bất lợi.
- Tháng 5 năm 2008, Cục trưởng Cục Quản lý cạnh tranh đã ký Quyết định tiến hành điều tra sơ bộ, hoạt động tố tụng hành chính chống lũng đoạn chính thức bắt đầu..
- Ngày Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã mở phiên điều trần.
- Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh nhất trí cho rằng, hành vi của Vinapco đã vi phạm quy định tại khoản 2 và khoản 3 Điều 14 Luật Cạnh tranh năm 2004, thuộc vào trường hợp hành vi “áp đặt điều kiện bất lợi cho khách hàng” và “lợi dụng vị trí độc quyền để đơn phương thay đổi hoặc hủy bỏ hợp đồng đã giao kết mà không có lý do chính đáng”.
- Đồng ý với đề xuất tố tụng của Cục Quản lý cạnh tranh, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh đã xử phạt Vinapco số tiền bằng 0,05% tổng doanh thu năm 2007, tương đương gần 3,4 tỷ đồng.
- Ngoài ra, Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh còn đề xuất với Cục Hàng không thuộc Bộ Giao thông vận tải tách Vinapco ra khỏi Vietnam Airlines, để hình thành nên hai doanh nghiệp độc lập với nhau..
- Vinapco không đồng ý với Quyết định này và gửi đơn khiếu nại lên Hội đồng cạnh tranh..
- Ngày Hội đồng cạnh tranh đã ra Quyết định bác đơn khiếu nại của Vinapco, giữ nguyên Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh.
- Tuy nhiên, Hội đồng cạnh tranh đã sửa kiến nghị trước đây của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, thay vì tách Vinapco ra khỏi Vietnam Airlines thành cho phép các công ty khác tham gia thị trường xăng dầu hàng không, từ đó loại bỏ vị trí độc quyền của Vinapco..
- Không lâu sau đó, vào ngày Bộ Giao thông vận tải đã pho phép Công ty cổ phần xăng dầu hàng không Petrolimex (Petrolimex Aviation Fuel JSC) tham gia vào thị trường này, từ đó hình thành nên kết cấu thị trường xăng dầu cạnh tranh..
- Một lần nữa Vinapco không đồng ý với Quyết định của Hội đồng cạnh tranh và gửi đơn kiện tới Tòa án nhân dân thành phố Hà Nội.
- Sau khi xem xét vụ việc, Tòa án cho rằng, do Vinapco không thể đưa ra chứng cứ chứng minh tính hợp lý của việc tăng giá, trong khi Quyết định của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh về tính chất hành vi và mức xử phạt đều có căn cứ pháp luật, phù hợp với quy định của Luật Cạnh tranh và các văn bản hướng dẫn thi hành.
- Như vậy, có thể thấy rằng, kiến nghị của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh và Hội đồng cạnh tranh đều hướng đến hình thành kết cấu thị trường cạnh tranh, tuy nhiên, kiến nghị tách Vinapco ra khỏi Vietnam Airlines của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh rõ ràng là làm mất đi doanh nghiệp có quy mô lớn, hình thành kết cấu thị trường toàn doanh nghiệp nhỏ.
- Như vậy, kiến nghị này hướng đến hình thành kết cấu thị trường cạnh tranh tự do – là mô hình không còn phù hợp với xu thế hiện nay.
- Cách làm này khá giống với xu thế phán quyết của Tòa án Mỹ những năm 70, 80 của thế kỷ trước, và sự thất bại trong cạnh tranh của nền kinh tế Mỹ trước Nhật Bản và Tây Âu đã buộc cơ quan tư pháp và chính phủ Mỹ sau đó phải từ bỏ quan điểm này.
- Trong thực tế, Hội đồng cạnh tranh đã thay đổi kiến nghị của Hội đồng xử lý vụ việc cạnh tranh, và sự thay đổi này hợp lý hơn, bởi việc vẫn giữ lại Vinapco thuộc Vietnam Airlines nhưng kiến nghị thành lập một hoặc một vài công ty xăng dầu cung cấp nhiên liệu hàng không mới sẽ tạo ra kết cấu thị trường cạnh tranh hữu hiệu, thay vì duy trì thị trường độc quyền hoặc thị trường cạnh.
- qua đó xử lý hài hòa được mối quan hệ giữa thị trường cạnh tranh và kinh tế quy mô, góp phần thúc đẩy chất lượng dịch vụ và giảm giá bán trên thị trường xăng dầu hàng không Việt Nam, đồng thời tạo thuận lợi cho việc hình thành các doanh nghiệp đủ lớn để có thể cạnh tranh trên thị trường quốc tế..
- Những phân tích ở trên cho thấy, cần phân biệt hai khái niệm quyền tự do cạnh tranh và kết cấu thị trường cạnh tranh tự do..
- Mục đích của chính sách và pháp luật cạnh tranh là hướng đến bảo vệ hành vi tự do cạnh tranh để thiết lập kết cấu thị trường cạnh tranh hữu hiệu, mà không phải là kết cấu thị trường cạnh tranh tự do, tức là phải xây dựng được kết cấu thị trường kết hợp hài hòa các ưu điểm của cạnh tranh và độc quyền, vừa tạo điều kiện cho doanh nghiệp hạ giá thành sản phẩm, đổi mới sáng tạo, vừa tận dụng được các lợi thế của kinh tế quy mô.
- Pháp luật cạnh tranh không chỉ là công cụ để bảo vệ doanh nghiệp vừa và nhỏ, mà phải bảo vệ tất cả các doanh nghiệp, đặc biệt những doanh nghiệp do nỗ lực phấn đấu để đạt được quy mô lớn, ngay cả khi họ có được vị trí thống lĩnh thị trường hoặc vị trí độc quyền thì pháp luật vẫn phải bảo vệ.
- Đồng thời, pháp luật cạnh tranh chỉ nên đóng vai trò là công cụ kiểm soát và điều chỉnh hành vi của doanh nghiệp, không nên điều chỉnh trạng thái tồn tại của doanh nghiệp, như vậy mới có thể hình thành doanh nghiệp lớn, qua đó tận dụng được ưu thế của kinh tế quy mô và tạo ra sức cạnh tranh của quốc gia trên trường quốc tế n.
- 10 Hội đồng cạnh tranh Việt Nam, http://www.hoidongcanhtranh.gov.vn/default.aspx?page=news&do=

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt