« Home « Kết quả tìm kiếm

Đào tạo trực tuyến ở các trường Đại học tư thục Việt Nam trong bối cảnh cách mạng công nghiệp 4.0


Tóm tắt Xem thử

- ĐÀO TẠO TRỰC TUYẾN Ở CÁC TRƯỜNG ĐẠI HỌC TƯ THỤC VIỆT NAM TRONG BỐI CẢNH CÁCH MẠNG CÔNG NGHIỆP 4.0.
- Có thể khái quát bốn đặc trưng chính của CMCN 4.0: (1) Dựa trên nền tảng của sự kết hợp công nghệ cảm biến mới, phân tích dữ liệu lớn, điện toán đám mây và kết nối Internet vạn vật sẽ thúc đẩy sự phát triển của máy móc tự động hóa và hệ thống sản xuất thông minh.
- Mục tiêu và cách thức đào tạo của các trường đại học phải chuyển từ truyền thụ kiến thức cho số đông sang khai phóng tiềm năng, đồng thời trao quyền sáng tạo cho từng cá nhân.
- Với nội dung học tập được số hóa, người học sẽ có một lộ trình học tập riêng, có thể lựa chọn nội dung phù hợp với mục tiêu đào tạo.
- Sự phát triển của các hình thức học trực tuyến giúp người học tiết kiệm thời gian, công sức và chi phí.
- Trong CMCN 4.0, việc áp dụng đào tạo trực tuyến trong các trường đại học nói chung, trường đại học tư thục (ĐHTT) nói riêng là một tất yếu, giúp nhà trường nâng cao chất lượng đào tạo..
- Bài báo trình bày khái quát xu hướng phát triển đào tạo trực tuyến trong CMCN 4.0, phân tích những thuận lợi, khó khăn của các trường ĐHTT khi áp dụng hình thức đào tạo trực tuyến và đề xuất một số giải pháp phát triển đào tạo trực tuyến ở các trường ĐHTT ở Việt Nam thời gian tới..
- Xu hướng phát triển đào tạo trực tuyến trong Cách mạng công nghiệp 4.0.
- các trường đại học, cao đẳng đã đưa ra các dạng khác nhau của mô hình đào tạo từ xa, tạo nên 54.000 khoá học trực tuyến.
- Cuối năm 2004, có khoảng 90% các trường đại học, cao đẳng Mĩ đưa ra mô hình E-learning (Bùi Việt Phú, 2012)..
- E-learning được triển khai ở các trường đại học và ở các công ty cũng diễn ra mạnh mẽ.
- Tại các doanh nghiệp, nhân viên được đào tạo quy trình nghiệp vụ trên hệ thống E-learning và LMS (Hệ thống quản lí học trực tuyến - Learning Management System).
- Công nghệ có sự phát triển vượt bậc từ năm 2010 đã làm cho đào tạo trực tuyến đã thực sự lan tỏa trên toàn thế giới.
- năm 2017, thị trường giáo dục trực tuyến toàn cầu đạt hơn 100 tỉ USD (kết quả nghiên cứu của Công ty khảo sát thị trường Global Industry Analysts)..
- Khi E-learning bắt đầu trở thành một xu thế thế giới thì trong nước, E-learning đã trở thành một mô hình học tập thu hút lượng lớn người sử dụng, đặc biệt là tại các trường đại học.
- Đào tạo trực tuyến (E-learning) mở ra một môi trường học tập mới giúp người học có thể tương tác tương tác mọi lúc, mọi nơi trên các ứng dụng di động và mạng xã hội (Lê Văn Toán và Trương Thị Diễm, 2020)..
- Những thuận lợi và khó khăn trong áp dụng đào tạo trực tuyến ở các trường đại học tư thục hiện nay 2.2.1.
- Thứ nhất, trong CMCN 4.0 các trường đại học nói chung, ĐHTT nói riêng có điều kiện cơ sở hạ tầng giáo dục số thuận lợi để phát triển đào tạo trực tuyến..
- Đặc biệt, cùng với sự phát triển của công nghệ, giáo dục số sẽ dần trở thành một “hình thái quan hệ học tập mới” làm thay đổi mô hình dạy học vốn tồn tại khá lâu theo hệ hình từ trên xuống (Top - Down) hoặc dưới lên (Bottom - Up) sang hệ hình mạng lưới, mang tính chia sẻ xã hội (Social sharing) trong đó, người học sẽ trở thành trung tâm của mạng lưới học tập mang tính xã hội (Trần Thị Vân Hoa, 2018)..
- Ở Việt Nam, hạ tầng công nghệ đang phát triển nhanh chóng, mạng Internet với tốc độ đường truyền ngày càng cao và giá phí thấp.
- Vì vậy, Việt Nam được đánh giá là quốc gia có tiềm năng phát triển E-learning lớn.
- Theo dữ liệu của tổ chức nghiên cứu thị trường Ambient Insight, Việt Nam nằm trong danh sách 10 quốc gia dẫn đầu về tỉ lệ phát triển E-learning dự báo cho giai đoạn 2014-2016.
- Đây là những điều kiện khách quan thuận lợi để các trường ĐHTT có thể triển khai dạy học trực tuyến..
- Thứ hai, hoạt động đào tạo ở các trường ĐHTT khá đa dạng, phong phú, với nhiều nội dung có thể áp dụng dạy học trực tuyến..
- Hoạt động đào tạo ở các trường ĐHTT về cơ bản đáp ứng nhu cầu của thị trường.
- Năm học có 16.327 giảng viên thuộc các trường ĐHTT trong tổng số 73.312 giảng viên cả nước, chiếm tỉ lệ 22,27%, tăng so với các năm học trước đó.
- Trong tổng số 21.106 giảng viên có trình độ từ tiến sĩ, các trường ĐHTT có 3.770 giảng viên chiếm tỉ lệ 17,86% (Thống kê giáo dục đại học năm học 2018-2019).
- Giảng viên trẻ, năng động giúp các nhà trường linh hoạt trong hoạt động đào tạo trực tuyến..
- Tỉ lệ sinh viên nhập học vào trường ĐHTT tăng hàng năm.
- Cả nước có 1.526.111 sinh viên trong năm học trong đó sinh viên các trường ĐHTT là 264.582, chiếm tỉ lệ 17.34%.
- viên tốt nghiệp các trường ĐHTT thường xuyên chiếm từ 12-14% trở lên trong tổng số sinh viên tốt nghiệp hàng năm (Thống kê giáo dục đại học năm học 2018-2019).
- Đây là yếu tố thuận lợi, không thể thiếu giúp các trường ĐHTT có thể triển khai đào tạo trực tuyến ở các bậc học, môn học, góp phần nâng cao chất lượng đào tạo của từng nhà trường..
- Thứ ba, các trường ĐHTT đã có sự đầu tư lớn về cơ sở vật chất, nguồn học liệu số phục vụ cho dạy học trực tuyến..
- Các trường ĐHTT đã đầu tư xây dựng khang trang, hiện đại, có những trường đáp ứng tiêu chuẩn quốc tế.
- Theo danh sách các trường đại học được công nhận đạt tiêu chuẩn chất lượng giáo dục trong nước, có 31 trường ĐHTT trong 149 trường đại học, có 02 trường ĐHTT trong 07 trường đại học đạt theo tiêu chuẩn nước ngoài (Cục Quản lí chất lượng - Bộ GD-ĐT)..
- Cùng với đầu tư cơ sở vật chất, các trường ĐHTT đã quan tâm đến phát triển các nguồn dữ liệu thông tin, nội dung kiến thức giáo dục đầu vào được số hóa (thiết kế, sản xuất, xuất bản, lưu trữ) và chuyển giao qua công cụ số nhằm đáp ứng nhu cầu ngày càng cao về “đa giác quan hóa” và tương tác mạnh cho người học.
- Được phát triển trên nền tảng, công cụ số theo nguyên tắc giàu nội dung, đa định dạng, tương tác mạnh, tái sử dụng, dễ tiếp cận, tra cứu, chia sẻ và đóng góp… học liệu số dần trở thành mục tiêu, phương tiện hữu hiệu trong đào tạo trực tuyến của các ĐHTT.
- Những thách thức của việc ứng dụng E-learning trong các trường ĐHTT bao gồm các khía cạnh thể chế, văn hóa, công nghệ, giáo dục, đạo đức:.
- Việc áp dụng E-learning cho đào tạo chính quy, đào tạo sau đại học không có cơ sở pháp lí rõ ràng để áp dụng.
- Tâm lí đánh giá thấp bằng cấp từ đào tạo từ xa và trực tuyến của nhà tuyển dụng và người học làm hạn chế khả năng thu hút người học..
- Hai là, các trường ĐHTT thiếu kinh phí để đầu tư phát triển, các dự án thường tiến hành nhờ vào nguồn tài trợ của nước ngoài.
- Thiếu sự liên kết giữa các trường đại học nên tác động lan tỏa của các khoản đầu tư trên còn hạn chế.
- Năng lực đội ngũ giảng viên và đội ngũ quản lí giáo dục chưa đáp ứng được yêu cầu phát triển E-learning, cả về phương diện công nghệ lẫn nội dung.
- Hầu hết các trường ĐHTT không thể bố trí đủ giảng viên cơ hữu, số giảng viên thỉnh giảng vẫn chiếm tỉ lệ lớn, phần lớn là giảng viên cơ hữu đều đã nghỉ hưu từ được mời về.
- Có những trường ĐHTT sau 8-10 năm thành lập có số giảng viên trình độ cao (giáo sư, tiến sĩ, tiến sĩ khoa học) rất ít.
- Việc đầu tư nhằm đào tạo, bồi dưỡng và nâng cao trình độ cho đội ngũ giảng viên ở các trường ĐHTT còn nhiều hạn chế..
- Đa số các trường có diện tích hẹp, phần lớn chưa đạt tiêu chuẩn diện tích phòng học, giảng đường.
- Nhiều trường ĐHTT chưa có cơ sở riêng, giảng đường, phòng làm việc đều phải đi thuê không có diện tích dành cho các hoạt động văn hóa, thể thao, chưa có kí túc xá.
- Hệ thống thư viện, kể cả thư viện điện tử của các trường nhìn chung là nhỏ, số lượng đầu sách nghèo nàn.
- Trang thiết bị thí nghiệm, thực hành ở phần lớn các trường đều thiếu thốn, lạc hậu (Báo cáo tóm tắt kết quả giám sát.
- Điều đó dẫn đến chất lượng đào tạo còn thấp, chưa tạo được sự đồng hướng về lợi ích, sự quan tâm đủ mạnh đến chất lượng giữa người học, người dạy, nhà đầu tư cho giáo dục, người sử dụng lao động và xã hội..
- Nội dung đào tạo của các trường ĐHTT nhìn chung còn lạc hậu.
- Một số giải pháp phát triển đào tạo trực tuyến ở các trường đại học tư thục Việt Nam thời gian tới 2.3.1.
- Nâng cao nhận thức, trách nhiệm về phát triển đào tạo trực tuyến ở các trường đại học tư thục Việt Nam.
- Việc tuyên truyền nâng cao nhận thức về vị trí, vai trò, lợi ích của đào tạo trực tuyến trong các trường ĐHTT cần được đẩy mạnh, không chỉ trong ngành Giáo dục mà còn với toàn xã hội.
- Các chủ thể quản lí, giảng viên, sinh viên các nhà trường cần nhận rõ những thuận lợi, khó khăn và những điều kiện để thực hiện đào tạo trực tuyến.
- Cần phải xây dựng lộ trình, kế hoạch đưa đào tạo trực tuyến vào các môn học và cả chương trình đào tạo.
- Các trường ĐHTT cần có sự phối kết hợp thực hiện các chiến dịch marketing hiệu quả cho các chương trình E-learning.
- Marketing góp phần đưa E-learning đến với mọi tầng lớp dân cư, từ đó khuyến khích tinh thần học tập cũng như rút ngắn những rào cản mà đào tạo truyền thống mang lại.
- Nhà nước cần sửa đổi, bổ sung hệ thống văn bản quy phạm pháp luật về tài chính cho giáo dục đại học nói chung và đại học tư thục nói riêng nhằm tạo khung pháp lí đồng bộ để tạo điều kiện thuận lợi nhất cho trường đại học tư thục phát triển.
- Khó khăn về tài chính là một trong những trở lực của các trường ĐHTT để phát triển đào tạo trực tuyến.
- Mọi hoạt động đầu tư ai cũng mong muốn tạo ra lợi nhuận, dù chưa được khẳng định nhưng đầu tư vào ĐHTT cũng là một hình thức kinh doanh hướng tới lợi nhuận, nhưng không phải như các doanh nghiệp kinh doanh vì lợi nhuận thuần túy, phần lợi nhuận của cơ sở ĐHTT sẽ tiếp tục tái đầu tư phát triển để nâng cao chất lượng đào tạo và nhà đầu tư chỉ hưởng phần lợi nhuận hợp lí..
- Điều chỉnh, bổ sung các chính sách hỗ trợ về tài chính đối với các trường ĐHTT.
- Nếu chỉ có một nguồn thu từ học phí của các sinh viên với đòi hỏi đầu tư các điều kiện đảm bảo chất lượng như xây dựng cơ sở vật chất, đổi mới trang thiết bị hiện đại, đầu tư xây dựng đội ngũ GV, đồng thời phải đóng thuế cho Nhà nước nữa thì nguồn tài chính của ĐHTT sẽ gặp rất nhiều khó khăn nên cần thiết phải được sự hỗ trợ tài chính từ phía Nhà nước để phát triển quy mô và chất lượng của các cơ sở ĐHTT.
- Không nên đánh thuế các trường ĐHTT phi lợi nhuận.
- Đánh thuế các trường ĐHTT chính là đánh thuế sinh viên, vì nguồn thu chính của trường ĐHTT là học phí.
- Nếu bị đánh thuế, các trường sẽ nâng học phí lên, người “chịu trận” sẽ là sinh viên.
- Quan tâm phát triển đội ngũ giảng viên.
- Đội ngũ giảng viên là tài sản quý giá đảm bảo sự tồn tại và phát triển của các trường ĐHTT.
- Họ có vai trò tạo nên thương hiệu, đẳng cấp của cơ sở đào tạo ở trong nước cũng như quốc tế.
- Ngày nay, đội ngũ giảng viên có sứ mạng vô cùng quan trọng trong việc đào tạo nguồn nhân lực vừa có trình độ chuyên môn cao, vừa có phẩm chất nhân cách tốt - những công dân có khả năng đáp ứng yêu cầu đổi mới và phát triển đất nước.
- Chất lượng đội ngũ giảng viên còn là một tiêu chí quan trọng trong đánh giá, kiểm định chất lượng trường đại học.
- Do đó việc chăm lo xây dựng và phát triển đội ngũ giảng viên các trường ĐHTT sẽ tạo được sự chuyển biến lớn về chất lượng giáo dục đại học, đáp ứng được những yêu cầu mới đối với phát triển KT-XH của quốc gia..
- Để chuẩn bị cho một đội ngũ nhân lực có trình độ cao sẵn sàng cho CMCN 4.0, cần có hình thức đào tạo đội ngũ giảng viên đáp ứng yêu cầu dạy học hiện đại nhất, như có khả năng ứng dụng công nghệ thông tin dạy học, có khả năng sử dụng các phương tiện dạy học hiện đại và quan trọng hơn cả là năng lực tự học, tự nghiên cứu khoa học..
- Hạ tầng tốt đóng vai trò quan trọng, quyết định thành công việc triển khai dạy - học trực tuyến, trong khi việc phát triển cơ sở hạ tầng để phục vụ E-learning với việc cải cách và nâng cấp không thể diễn ra trong ngắn hạn.
- Bộ GD-ĐT cần phát triển hệ thống LMS và LCMS phù hợp hỗ trợ cho việc đào tạo trực tuyến (LMS quản lí các hoạt động học tập online, LCMS quản lí nội dung học tập).
- phát triển nguồn học liệu bài giảng đa phương tiện cho đào tạo trực tuyến.
- Bộ cũng cần có quy định về quy chuẩn cơ bản việc đào tạo theo hình E-learning là xu thế tất yếu của xã hội, quy định chuẩn tối thiểu về đào tạo E-learning như cơ sở hạ tầng, trang thiết bị, người dạy, người học, đề cương học phần.
- Tăng cường hợp tác giữa đại học tư thục và doanh nghiệp nhằm nâng cao hiệu quả đào tạo trực tuyến Trong bối cảnh CMCN 4.0, yếu tố cốt lõi của việc xây dựng hệ thống giáo dục đại học đó là đào tạo gắn liền với yêu cầu thực tiễn, đào tạo đáp ứng tốt hơn nhu cầu của xã hội.
- Phát triển mô hình đào tạo gắn kết giữa cơ sở giáo dục (nhà trường) với doanh nghiệp được xem là yêu cầu quan trọng được đặt ra.
- Để tăng cường mối quan hệ hợp tác giữa ĐHTT và các doanh nghiệp nhằm nâng cao chất lượng đào tạo trực tuyến cần thực hiện đồng bộ nhiều biện pháp..
- 1) Mở rộng liên kết đào tạo giữa doanh nghiệp với ĐHTT.
- Phía doanh nghiệp sẽ đóng vai trò là những nhà cung cấp thông tin để các cơ sở đào tạo nắm được nhu cầu của thị trường lao động.
- Hoạt động đào tạo của trường đại học, cao đẳng luôn hướng tới nhu cầu doanh nghiệp.
- Như vậy, doanh nghiệp được hợp tác với cơ sở đào tạo cũng là nhu cầu thiết thực của chính doanh nghiệp.
- Thứ hai, nhà trường có sẵn đội ngũ trí thức được đào tạo một cách bài bản, có đủ năng lực để tiếp nhận chuyển giao những công nghệ mới tiên tiến, từ đó triển khai áp dụng cho doanh nghiệp.
- 3) Chính phủ định hướng, đưa nguồn lực từ các tổ chức nước ngoài giúp thúc đẩy sự gắn kết giữa các trường ĐHTT và doanh nghiệp ở Việt Nam.
- Cùng với sự phát triển của CMCN 4.0, đào tạo trực tuyến đã không còn là hình thức xa lạ đối với các trường ĐHTT.
- Các chuyên gia giáo dục nhận định, cùng với sự phát triển của công nghệ và nhu cầu học tập suốt đời ngày càng tăng, học tập trực tuyến E-learning là một xu hướng tất yếu mà các nước trên thế giới cũng như Việt Nam hướng tới và đẩy mạnh.
- Đào tạo trực tuyến E-learning mang lại nhiều lợi ích như đơn giản và dễ tiếp cận đối với người học;.
- Tuy nhiên, việc áp dụng hình thức đào tạo này ở các trường ĐHTT, bên cạnh những thuận lợi cơ bản vẫn còn nhiều khó khăn, trở ngại.
- Do đó, để phát triển đào tạo trực tuyến, các trường ĐHTT cần phải hành động quyết liệt, triển khai đồng bộ nhiều giải pháp.
- Thông tư số 12/2016/TT-BGDĐT ngày quy định ứng dụng công nghệ thông tin trong quản lí, tổ chức đào tạo qua mạng..
- Thông tư số 10/2017/TT-BGDĐT ngày ban hành quy chế đào tạo từ xa trình độ đại học..
- Số liệu thống kê giáo dục đại học năm học 2018-2019.
- Một số giải pháp nâng cao hiệu quả đào tạo trực tuyến trong giáo dục đại học trong bối cảnh Cách mạng công nghiệp 4.0.
- Giáo dục đại học Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Cách mạng công nghiệp 4.0 - Xu thế phát triển của giáo dục trực tuyến.
- Giáo dục Việt Nam trong bối cảnh cuộc Cách mạng công nghiệp lần thứ tư.
- Cách mạng công nghiệp 4.0 - Vấn đề đặt ra cho phát triển kinh tế - xã hội và hội nhập quốc tế của Việt Nam

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt