« Home « Kết quả tìm kiếm

Giải bài tập Ngữ văn lớp 8 bài 21: Viết bài tập làm văn số 5 - Văn thuyết minh


Tóm tắt Xem thử

- Giới thiệu một danh lam thắng cảnh ở quê em..
- Giới thiệu một loại hoa (như hoa đào, hoa mai.
- Giới thiệu một sản phẩm, một trò chơi mang bản sắc Việt Nam (như chiếc nón lá, chiếc áo dài, trò chơi thả diều)..
- Giới thiệu một đồ dùng học tập trong sinh hoạt (cái bàn học).
- Giới thiệu danh lam thắng cảnh ở quê em..
- Thuyết minh về một văn bản - Thể thơ lục bát..
- Thơ Việt Nam có rất nhiều thể loại: Ngụ ngôn, lục bát, song thất lục bát, đường luật, thơ tự do.
- Nhưng trong tất cả các thể loại ấy quen thuộc nhất là lục bát, nó đã đi sâu vào tâm hồn người Việt Nam và trở thành máu thịt.
- Thơ lục bát có những đặc điểm sau đây:.
- Về thời gian: Lục bát là thể thơ cổ truyền của dân tộc đã có từ rất lâu, nó đã ăn sâu bắt rễ trong nhân dân, thể hiện rõ tính dân tộc của thơ Việt Nam..
- Về số tiếng, số dòng: Gọi là lục bát vì có hai câu đi liền nhau câu 6 tiếng và câu 8 tiếng, khi trình bày câu lục thụt vào một ít so với câu bát.
- Số dòng trong thơ lục bát không bị hạn định có thể kéo dài vô tận miễn tuân thủ đúng quy định..
- Áng thơ lục bát hay nhất và được nhiều bạn đọc yêu thích nhất phải kể đến.
- Về gieo vần: Thể thơ lục bát vừa gieo vần chân vừa gieo vần lưng, tiếng cuối cùng của câu lục gieo vần xuống tiếng thứ sáu câu bát, tiếng thứ sáu câu bát gieo với tiếng cuối câu lục tiếp theo..
- Về luật bằng trắc: Hình mẫu của câu thơ lục bát cổ điển được phối điệu như sau..
- Tuy vậy, có thể gặp lối ngắt nhịp lẻ mỗi nhịp ba tiếng khi trong câu có tiểu đối..
- Ngày nay, trong thơ ca Việt Nam hiện đại thơ lục bát vẫn chiếm vị trí quan trọng, được nhiều nhà thơ sử dụng và quần chúng yêu thích..
- Giới thiệu một loài hoa (hoa mai).
- Người Việt Nam vốn rất yêu thích hoa, trong các loài hoa thì hoa Đào và hoa Mai được nhiều người yêu thích nhất.
- Hoa Mai và hoa Đào đã đi sâu vào đời sống tâm hồn của con người Việt Nam như một phần máu thịt..
- Những ngày Tết người ta thường chưng Mai trong nhà để lấy hên cho cả năm..
- Chỗ để Mai bao giờ cũng là nơi khang trang nhất của phòng khách để mọi người có thể chiêm ngưỡng Mai một cách đẹp nhất.
- Một số người còn cho rằng dựa vào cây Mai nở hoa trong ngày Tết có thể dự đoán được sự hên xui trong năm đó..
- Hoa Mai thường là năm cánh, thế nhưng bằng phương pháp kĩ thuật hiện đại người ta có thể cho hoa nở từ năm đến mười bảy, mười tám cánh.
- Ngoài hai màu đỏ, vàng người ta còn có thể lai ghép thành màu trắng, cùng một cây Mai có đủ cả ba màu.
- Giới thiệu một sản phẩm mang bản sắc Việt Nam..
- Nón lá là biểu tượng gắn liền với dân tộc Việt Nam, gắn liền với những người mẹ ra đồng hai sương một nắng, với những người chị một đời buôn gánh bán bưng.
- Nón lá chứa đựng tâm tình của lứa đôi những chiều mưa bay, nắng đổ, của lòng du khách tìm về với bản sắc dân gian.
- Vừa là vật chất trong đời sống vừa thuộc tâm linh con người, nón lá bình dị như tên gọi nhưng mấy ai hiểu được chứa đựng trong những nan vành là cả cội nguồn của đất mẹ quê cha….
- Cách đây khoảng ba ngàn năm, nón lá đã được khắc trên thạp đồng Đào Thịnh, trên trống đồng Ngọc Lũ.
- Nón lá ban đầu gắn liền với đời sống nông nghiệp như một phương tiện của người dân trên xứ sở nhiệt đới nắng lắm mưa nhiều..
- Người ta đội nón đi cày bừa, cấy, gặt.
- Người ta đội nón đi chợ sớm chợ chiều..
- Người ta đội nón đi hội hè tế lễ.
- Trên khắp đất Việt này, đâu lại chẳng có hình ảnh của nón lá thân thương: Một chiếc nón quai thao yểu điệu trong lễ hội người dân đất Bắc, nón gò găng Bình Định trên những chiếc xe ngựa ngược xuôi, nón bài thơ lãng mạn của con người Huế....
- Người Việt từ nông thôn cho tới thành thị đều dùng nón lá, nhưng ít người để ý nón lá có bao nhiêu vành, đường kính rộng bao nhiêu.
- Nón lá tuy giản dị nhưng nghệ thuật làm nón cần phải khéo tay.
- Với cây mác sắc, người ta chuốt từng sợi tre thành mười sáu nan vành một cách công phu, sau đó uốn thành vòng thật tròn trịa và bóng bẩy.
- Khi xây và lợp lá, người ta phải khéo léo sao cho khi chêm lá không bị chồng lên nhau thành nhiều lớp để nón có thể thanh và mỏng.
- Lá mọc ở những vùng núi, sau này người ta đem giống về trồng ở vườn, có tên là Bồ Quy Diệp.
- Lá non lúc khô có màu trắng xanh, người ta phải phơi lá vào sương đêm cho lá bớt độ giòn, đè và kéo nón lá thẳng như một tờ giấy trắng, có nổi lên những đường gân nhỏ, lựa những lá đẹp để làm phần ngoài của nón.
- Người ta dùng cái khung hình như Kim Tự Tháp, có sáu cây sườn chính, khoảng cách giống nhau để gài mười sáu cây vành tròn lớn nhỏ khác nhau lên khung.
- Nón rộng đường kính 41cm, người ta phết phía ngoài lớp sơn dầu.
- Nghề làm nón lá thường có ở miền Trung và miền Bắc trong các làng quê sau vụ mùa, các tỉnh miền Nam không thấy người ta chằm nón....
- Đời sống văn minh phát triển nhưng nón lá Việt Nam vẫn thuần tuý nguyên hình của nó.
- Ở bất cứ nơi đâu, từ rừng sâu hẻo lánh, trên đồng ruộng mênh mông, dọc theo sông dài biển cả, đều thấy chiếc nón lá ngàn đời không đổi thay..
- Nón lá trong đời sống mưa nắng dãi dầu, nón lá trong nghệ thuật tôn vinh vẻ đẹp thuần tuý thuỷ chung, nón lá trong văn chương đượm tình nặng nghĩa.
- Đi qua những năm tháng, đi qua những thăng trầm cuộc sống, nón lá mãi là nghĩa tình, chứa đựng những giá trị hữu hình lẫn vô hình của mấy ngàn năm dân tộc..
- Bên dòng Hương là núi Ngự Bình, vẽ nên cảnh sơn thuỷ hữu tình đặc trưng xứ Huế.
- Vẫn còn núi Ngự bên bờ sông Hương”..
- Núi Ngự điềm đạm mà sang cao, không biết cứa vào lòng khối núi rắn chắc ấy biết bao là mối cảm tình nhân gian?.
- Núi Ngự khác nào một giả sơn: Ông cha đã khéo đưa một thực thể tự nhiên vào quần thể kiến trúc, dựng nên bức bình phong uy nghi làm tiền án trên trục chính của Kinh thành căn cứ vào các nguyên tắc địa lý phong thuỷ và thuyết âm dương ngũ hành.
- Ngự Bình trông xa hao hao chim đại bàng vỗ cánh bay lên trời nên tên cũ là Bằng Sơn (hay Bình Sơn).
- Vua Gia Long lên ngôi, chọn Phú Xuân làm kinh đô, đặt tên là núi Ngự Bình.
- “Núi Ngự Bình trước tròn, sau méo Sông An Cựu nắng đục, mưa trong”..
- Nhìn ngọn Ngự Bình cùng hai ngọn Tả Phù – Hữu Bật trông giống như con phượng hoàng đang xòe cánh che chở cho đến thành.
- Cách núi Ngự Bình vài km là đồi Vọng Cảnh, một danh thắng khác của Huế, đứng soi bóng duyên dáng bên dòng sông Hương, nhìn qua núi Ngọc Trản.
- Từ chân núi đến đỉnh núi Ngự Bình rợp một màu xanh tốt của rừng thông mà ngày xưa các vua Nguyễn đã cho trồng.
- Mỗi độ giêng hai khi sương xuân vào buổi sáng tinh mơ còn vờn bay mờ nhạt cả đỉnh núi Ngự Bình thì cũng là lúc những cây thông ở núi Ngự Bình như thức dậy và quyến rũ thêm.
- Mỗi lần nghe mùa thống núi Ngự reo vui là lòng người lại bâng khuâng một nỗi niềm khó tả.
- Ta thường thích thú được lặng im ngồi nghe khúc nhạc thiên nhiên vi vu ấy với cảm giác thanh thản, sảng khoái khi được nhìn những cây thông san sát bên nhau như đang giang tay ôm lấy núi Ngự vào lòng.
- Đứng trên đỉnh núi Ngự phóng mắt về xa, ta thấy màu xanh ấy còn trải dài đến một rừng đồng bằng bát ngát của các huyện Hương Thuỷ, Hương Trà, Phú Vang.
- Những dịp đẹp trời, có thể trông xa trọn vẹn ruộng đồng, làng mạc các huyện phụ cận, cả dải cát trắng của Thuận và màu xanh biếc của biển Đông, cả dãy Trường Sơn tím thẫm ẩn hiện phía Tây qua trập trùng mây bạc.
- Núi không cao, đường lên không cheo leo gập ghềnh nhưng núi Ngự mang cái dáng vẻ của một con người trầm tư mặc tưởng.
- Cái đẹp của núi Ngự không chỉ về phong thuỷ che chở cho kinh thành Huế, cái đẹp của núi Ngự là ở chỗ gần gũi với dân Huế, nó trở thành một cái đàn, một ngôi lầu cao vút và lên đó theo những bậc cấp nhân tạo người ta có thể phóng tầm mắt mình chiêm ngưỡng vẻ đẹp dịu hiền của thành Huế, lắng nghe những tiếng vọng từ bên dưới rất xa, và có cảm tưởng mình như đang ở vào một thế giới nào đó.
- Đâu phải vô tình người ta gọi xứ Huế là miền Hương Ngự.
- Cùng với sông Hương, núi Ngự Bình là quà tặng vô giá thứ hai của tạo hoá quyện vào nhau tạo nên một bức sơn thuỷ đằm thắm dịu dàng.
- “Núi Ngự không chỉ là cảnh đẹp đứng bên ngoài, nó còn là một thực thể quấn quýt rất sâu trong tình cảm riêng của nhiều thế hệ người Huế.
- Trong khát vọng thăng hoa của tâm hồn Huế, núi Ngự Bình mãi mãi là biểu tượng của tình yêu vĩnh cửu” (Hoàng Phủ Ngọc Tường).