« Home « Kết quả tìm kiếm

Đại hội X của Đảng với chính sách đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tế


Tóm tắt Xem thử

- Đại hội X của Đảng với chính sách đối ngoại và hội nhập kinh tế quốc tếI.
- THÀNH TỰU ĐỐI NGOẠI CỦA ĐẢNG TA TRONG 20 NĂM ĐỔI MỚI:Công cuộc đổi mới do Đảng ta khởi xướng và lãnh đạo từ năm 1986 đến nay đã thu được nhữngthành tựu hết sức to lớn và có ý nghĩa lịch sử, làm thay đổi bộ mặt của đất nước, tạo tiền đề vàđộng lực cho Việt Nam tiến bước nhanh hơn, vững chắc hơn trên con đường công nghiệp hóa,hiện đại hóa.
- Ngoại giao Việt Nam rất vinh dự và tự hào đã có những đóng góp quan trọng vàxứng đáng vào thắng lợi chung đó của đất nước.Quán triệt đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hoá, đa phương hoá quan hệquốc tế, chủ động hội nhập quốc tế, Ngoại giao đã trở thành mặt trận quan trọng trong thời bìnhvà đã góp phần giữ vững và củng cố môi trường hoà bình và tạo những điều kiện quốc tếngày càng thuận lợi cho công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc.
- nâng cao vị thế và uy tíncủa nước ta ở khu vực và trên thế giới.+ Thành tựu đối ngoại có tính chất bao trùm trong thời gian qua là từ chỗ bị cô lập về chính trị,bao vây cấm vận về kinh tế, Việt Nam đã chủ động, nỗ lực mở rộng hơn bao giờ hết quan hệ đốingoại của mình theo hướng đa dạng hóa, đa phương hóa.
- Trong 20 năm đổi mới, Việt Nam đãthiết lập quan hệ ngoại giao thêm với 57 nước, nâng tổng số quốc gia có quan hệ chính thức lên169 nước.
- và có quan hệ buôn bán với 224/ 255 thị trường của các nước và vùng lãnh thổ.+ Việt Nam đã tạo dựng được khuôn khổ quan hệ hợp tác hữu nghị, ổn định lâu dài và ngàycàng đi vào chiều sâu với các nước láng giềng, khu vực.
- góp phần đáng kể vào việc duy trì môitrường an ninh xung quanh Việt Nam và phục vụ cho công cuộc phát triển kinh tế.Các hiệp ước, hiệp định ký với Trung Quốc, Cam-pu-chia trong thời gian qua đã đã tạo cơ sởpháp lý cho việc biến đường biên giới chung Việt Nam với các nước láng giềng thành đườngbiên giới hòa bình, hữu nghị, thịnh vượng chung.+ Thành tựu tiếp được coi là bước phát triển lớn, mang tính đột phá trong triển khai hoạt độngđối ngoại thời kỳ Đổi mới.
- Đó là Việt Nam đã đi từ bình thường hóa quan hệ đến từng bước nângcấp và xác lập khuôn khổ quan hệ hợp tác bình đẳng, cùng có lợi với tất cả các nước lớn, cáctrung tâm kinh tế - chính trị lớn và các nước công nghiệp phát triển.+ Trong triển khải chính sách đa dạng hoá, đa phương hoá các quan hệ quốc tế, Việt Nam đãtích cực và chủ động củng cố và phát triển quan hệ hợp tác với các nước bạn bè truyền thống vàcác nước đang phát triển khác ở Trung Đông, châu Phi và Mỹ La tinh.+ Hoạt động ngoại giao đa phương đã có bước phát triển vượt bậc.
- góp phần nâng cao hơn nữavai trò và uy tín của Việt Nam tại các tổ chức và diễn đàn quốc tế như Liên hiệp quốc, Phong tràoKhông liên kết, Hiệp hội các quốc gia Đông nam Á (ASEAN), Diễn đàn Hợp tác kinh tế Châu Á –Thái bình dưong (APEC), Diễn đàn hợp tác Á – Âu (ASEM), từng buớc đưa Việt Nam hội nhậpvào kinh tế khu vực và thế giới.+ Coi phát triển kinh tế là nhiệm vụ trung tâm, công tác Ngoại giao phục vụ phát triển kinh tế đãngày càng phát huy vai trò.
- nội dung kinh tế ngày càng thể hiện rõ nét trong mọi hoạt động chínhtrị đối ngoại.
- Ngoại giao đã kết hợp tốt giữa chính trị đối ngoại với kinh tế đối ngoại, góp phần tạothêm nguồn lực từ bên ngoài, mở rộng thị trường, gia tăng đối tác, phục vụ mục tiêu phát triểnkinh tế-xã hội của đất nước.+ Công tác về người Việt Nam ở nước ngoài được thúc đẩy mạnh mẽ và đã thu được những kếtquả tích cực, quan trọng.
- Số lượng bà con Việt kiều về thăm quê hương, tìm kiếm cơ hội đầu tưbuôn bán ở trong nước ngày càng gia tăng.Tổng hợp lại, Báo cáo Chính trị của BCH TW tại Đại hội X đã đánh giá: “Hoạt động đối ngoạiđược mở rộng, góp phần giữ vững môi trường hòa bình, phục vụ tốt nhiệm vụ phát triển kinh tế -xã hội, nâng cao uy tín của Việt Nam trong khu vực và trên thế giới".II.
- MỘT SỐ BÀI HỌC RÚT RA TRONG CÔNG TÁC ĐỔI MỚI ĐỐI NGOẠI:+ Một là, bài học về đổi mới về tư duy đối ngoại: thể hiện ở cách nhìn nhận, đánh giá tình hìnhthế giới, quan hệ quốc tế, xu thế của thời đại, mối quan hệ tác động qua lại giữa Việt Nam và thếgiới, những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam, vận dụng tư tưởng ngoại giao Hồ Chí Minh.Trên cơ sở đó đề ra đường lối chính sách và biện pháp đối ngoại đúng đắn, phù hợp với thựctiễn của đất nước và xu thế của tình hình thế giới.
- Trong 20 năm qua, đường lối, chính sách đối ngoại ngày càng đượchoàn chỉnh về mặt nội dung, phong phú về hoạt động thực tiễn, là định hướng đề ra các chủtrương, biện pháp để mở rộng quan hệ đối ngoại, xử lý các vấn đề nảy sinh, phục vụ có hiệu quảnhất những yêu cầu cấp thiết của đất nước qua mỗi giai đoạn cụ thể.+ Hai là, bài học về nêu cao tinh thần độc lập, tự chủ ,hòa bình, hòa hiếu, hợp tác để phát triển,đặt lợi ích dân tộc lên hàng đầu: Điều này được thể hiện xuyên suốt trong đường lối và chínhsách của Đảng và Nhà nước ta.
- Mục tiêu nhất quán là giữ vững và củng cố môi trường hoà bìnhvà tạo điều kiện quốc tế thuận lợi nhất để phục vụ công cuộc xây dựng và bảo vệ Tổ quốc đãđược triển khai thực hiện một cách tích cực và hiệu quả.+ Ba là, bài học về chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế với giữ vững độc lập, tự chủ,thống nhất và bản sắc dân tộc.
- Độc lập tự chủ vè kinh tế còn có nghĩa là là một nền kinh tế có thực lực đủ mạnh, cóthể ứngphó nhanh, kịp thời với những biến động khó lường của kinh tế thế giới và khu vực, làmột nền kinh tế "mở" kết hợp nội lực với ngoại lực thành sức mạnh tổng hợp để phát triển đấtnước, có sức cạnh tranh cao, không để bị lệ thuộc và bị chi phối từ bên ngoài, bảo đảm an ninhkinh tế.+ Bốn là, bài học về tạo sức mạnh tổng hợp của các lực lượng tham gia quan hệ đối ngoại trêncác lĩnh vực khác nhau và dưới các hình thức khác nhau, kết hợp ngoại giao Nhà nước, ngoạigiao Đảng, ngoại giao nhân dân, ngoại giao Quốc hội, ngoại giao an ninh, quốc phòng...III.
- VỀ PHƯƠNG HƯỚNG ĐỐI NGOẠI VÀ HỘI NHẬP TRONG 5 NĂM TỚI.- Tình hình thế giới và khu vực trong 5 năm tới tiếp tục diễn biến phức tạp, tác động nhiều chiềutới an ninh và phát triển của Việt Nam.
- Đó là thành tựu của đất nước trong 5năm qua và 20 năm đổi mới làm cho thế và lực Việt Nam mạnh lên nhiều.
- việc mở rộng quan hệđối ngoại và chủ động hội nhập kinh tế quốc tế tạo thuận lợi cho Việt Nam tiếp tục công cuộc đổimới, giữ vững và củng cố môi trường hoà bình, ổn định, để tập trung phát triển kinh tế với tốc độnhanh hơn.Trên cơ sở đánh giá sâu sắc những cơ hội và thách thức đối với Việt Nam trong thời gian tới, Đạihội X khẳng định phải tranh thủ cơ hội, vượt qua thách thức, tiếp tục đổi mới mạnh mẽ, toàn diệnvà đồng bộ hơn nữa, phát triển với tốc độ nhanh hơn và bền vững hơn nhằm sớm đưa nước tara khỏi tình trạng kém phát triển, tạo nền tảng để đến năm 2020 Việt Nam cơ bản trở thành nướccông nghiệp hóa theo hướng hiện đại.- Để thực hiện những nhiệm vụ to lớn trên, Đại hội Đảng X đã đề ra mục tiêu, đường lối, phươngchâm chỉ đạo hoạt động đối ngoại:+ Nhiệm vụ đối ngoại: giữ vững và củng cố môi trường hoà bình, tạo các điều kiện quốc tế thuậnlợi hơn nữa cho công cuộc đổi mới, đẩy mạnh phát triển kinh tế xã hội, công nghiệp hoá, hiện đạihoá, đồng thời góp phần vào cuộc đấu tranh chung của nhân dân thế giới vì hòa bình, độc lậpdân tộc, dân chủ và tiến bộ xã hội.+ Thực hiện nhất quán đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, hoà bình, hợp tác và phát triển.
- chínhsách đối ngoại rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa các quan hệ quốc tế, đưa quan hệ quốc tếsong phương và đa phương đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững.+ Tiếp tục giương cao hơn nữa ngọn cờ hoà bình, hợp tác và phát triển.
- Việt Nam là bạn, là đốitác tin cậy, là thành viên tích cực và xây dựng của các nước trong cộng đồng quốc tế, phấn đấuvì hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững.
- tham gia tích cực vào tiến trình hợp tác quốc tế vàkhu vực.- Hoạt động đối ngoại trong thời gian tới sẽ được triển khai trên một số hướng chính sau:Một là, tiếp tục mở rộng quan hệ đối ngoại, củng cố và hoàn thiện khuôn khổ quan hệ ổn định,lâu dài với các nước nhất là láng giềng khu vực, các nước lớn và các đối tác quan trọng khác,tạo bước chuyển biến mới trong quan hệ hợp tác theo hướng đưa các mối quan hệ hợptác đi vào chiều sâu, ổn định, bền vững, tạo ra sự tin cậy lẫn nhau.Hai là, chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế sâu hơn và đầy đủ hơn với các thểchế kinh tế toàn cầu, khu vực và song phương sau khi gia nhập WTO: thực hiện các cam kết vớicác nước về thương mại, đầu tư, mở cửa thị trường, chuẩn bị tốt các điều kiện để ký các Hiệpđịnh thương mại tự do song phương với các nước, nhất là các nước lớn, ký các Hiệp định hợptác kinh tế đa phương và khu vực.
- Thúc đẩy quan hệ hợp tác toàn diện có hiệu quả với các nướcASEAN, các nước khu vực châu Á - TBD.Ba là, tăng cường hơn nữa vai trò của hoạt động kinh tế đối ngoại, tạo môi trường pháp lý thuậnlợi cho hoạt động kinh tế đối ngoại, cải thiện môi trường đầu tư nhằm thu hút FDI, ODA, thúc đẩymở rộng quan hệ hợp tác kinh tế, thương mại, đầu tư, mở rộng thị trường với các nước, các tổchức quốc tế nhằm thực hiện nhiệm vụ phục vụ phát triển kinh tế - xã hội, công nghiệp hoá, hiệnđại hoá đất nước.Bốn là, xây dựng và củng cố đường biên giới hòa bình, hợp tác phát triển với các nước lánggiềng, đặc biệt là đẩy mạnh hoàn thành việc phân giới, cắm mốc với Trung Quốc và Campuchianhư mục tiêu đã đề ra, đồng thời kịp thời giải quyết các vấn đề nảy sinh, bảo vệ chủ quyền, toànvẹn lãnh thổ của đất nước.
- Sẵn sàng đối thoại với các nước và các tổ chức quốc tế và khu vựcvề những vấn đề cùng quan tâm, trong đó có vấn đề dân chủ, nhân quyền, đồng thời kiên quyếtđấu tranh với các luận điệu sai trái, lợi dụng các vấn đề dân chủ, nhân quyền, tôn giáo để canthiệp vào công việc nội bộ của Việt Nam.Năm là, cùng với các hoạt động ngoại giao song phương, tăng cường hơn nữa hoạt động trêncác diễn đàn đa phương ở khu vực và trên thế giới, mở rộng sự hợp tác nhiều mặt với các tổchức khu vực và quốc tế, chủ động tham gia giải quyết các vấn đề toàn cầu, tiếp tục củng cố vànâng cao vai trò và vị thế của Việt Nam trong các định chế quốc tế.
- trước mắt là tổ chức thànhcông Hội nghị Cấp cao APEC 14 vào cuối năm nay tại Hà Nội và tích cực hướng tới mục tiêuứng cử làm uỷ viên không thường trực Hội đồng Bảo an Liên Hợp quốc khoá 2008-2009.Sáu là, Đại hội X tiếp tục khẳng định: đồng bào Việt Nam định cư ở nước ngoài là một bộ phậnkhông tách rời và là nguồn lực của cộng đồng dân tộc Việt Nam, là nhân tốc quan trọng gópphần tăng cường quan hệ hợp tác, hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam và nhân dân các nước, tổchức thực hiện có hiệu quả Nghị quyết 36 của BCT (tạo điều kiện thuận lợi và hỗ trợ ổn địnhcuộc sống, bảo vệ quyền lợi chính đáng, có các chính sách để hướng về quê hương, góp phầnxây dựng đất nước, thu hút, phát huy trí tuệ của trí thức).Bảy là, đẩy mạnh công tác thông tin tuyên truyền và văn hoá đối ngoại, tăng cường sự hiểu biếtlẫn nhau, sự hợp tác và tình hữu nghị giữa nhân dân Việt Nam với nhân dân các nước, góp phầnlàm cho bạn bè thế giới hiểu rõ hơn về công cuộc Đổi mới, về đất nước và con người Việt Namtrên con đường hội nhập và phát triển.Tám là : Phối hợp chặt chẽ hoạt động ngoại giao của Đảng, của Quốc hội, ngoại giao Nhà nướcvới ngoại giao nhân dân, đối ngoại quốc phòng-an ninh, chính trị đối ngoại và kinh tế đối ngoạitạo thành sức mạnh tổng hợp nhằm thực hiện tốt nhiệm vụ đối ngoại chung của đất nước./.I.Quan hệ Việt Nam-Nhật BảnThưa quý vị, nói tới các quan hệ của Việt Nam với các nước trên thế giới hiện nay, thì một điểm sánglà quan hệ với Nhật Bản.
- Theo giáo sư Tomohiko Taniguchi, một nhà nghiên cứu người Nhật đanglàm việc tại Trung Tâm Nghiên Cứu Chính Sách Đông Bắc Á tại Viện Nghiên Cứu Brookings, thìquan hệ giữa Hà Nội và Tokyo trong thời gian tới là một quan hệ rất có triển vọng, và sẽ mang lại lợiích cho cả đôi bên.Điều thứ nhất tôi muốn nói là đối với Nhật Bản, Việt Nam quan trọng hơn quý vị tưởng rất nhiều.
- Vàthứ hai, Nhật Bản cần đến Việt Nam không thua gì Việt Nam cần đến Nhật Bản.Giáo Sư Taniguchi đã nhắc qua đến những cuộc phản đối dữ dội chống Nhật Bản đã diễn ra tại TrungQuốc hồi gần đây, liên quan tới cách diễn giải lịch sử trong một số sách giáo khoa mới của Nhật Bản.Giáo sư Taniguchi nói rằng trong bối cảnh ấy, Nhật Bản đang rất cần đến tình hữu nghị của các nướctrong khu vực, và theo ông thì Việt Nam là một trong những nước hiếm hoi không khơi lại chuyện cũ,tức là những hành động tàn ác của quân đội Nhật Hoàng trong thời chiến tranh để đả kích Nhật Bản.Cùng lúc, Việt Nam rất cần đến sự giúp đỡ của nước ngoài, nhất là về phương diện đầu tư để xâydựng hệ thống hạ tầng cơ sở.Giáo sư Taniguchi nói lý do thứ Hai vì sao Nhật Bản muốn giúp đỡ Việt Nam là vì sự cần cù củangười Việt Nam.Và vì những lý do đó, mà Việt Nam rất có triển vọng trở thành nước được Tokyo chú ý đến khi NhậtBản chọn một nước khác để thay thế Trung Quốc trong tư cách là đối tượng để nhận những trợ giúpcủa Chương trình Viện Trợ Phát Triển Nhật Bản.Trung Quốc trong nhiều năm đã là một thân chủ rất quan trọng trong chính sách Phát Triển ViệnTrợ của Nhật Bản.
- Hãy xét tới số liệu sau đây: một khoản tiền cho vay lên tới 2 tỉ 100 triệu mỹ kim,đó là trong năm 2000, là ngân khoản lớn nhất mà Nhật Bản đã cho Trung Quốc vay với lãi suất rấtthấp theo tinh thần chương trình phát triển viện trợ.
- Và nếu quý vị nhìn quanh, thì Việt Nam nổi bật nhưmột trong những ứng viên sáng giá nhất, và có nhiều triển vọng nhất.Đó là ý kiến của Giáo Sư Tomohiko Taniguchi thuộc Viện Nghiên Cứu Brookings, và là tác giả củanhiều sách có giá trị phân tích hiện tình thế giới.II.Quan hệ với NgaTrong thời chiến tranh Việt Nam, Việt Nam và Liên Bang Sô Viết Cũ từng có quan hệ đồng minh vàchia sẻ chung một ý thức hệ, ngày nay, quan hệ giữa Việt Nam với nước Nga bây giờ đang trong tìnhtrạng nào? Một nhà nghiên cứu chuyên về các vấn đề Việt Nam, từng phục vụ tại Đại Sứ Quán Nga ởHà Nội, là Giáo Sư Vladimir Mazyrin thuộc Viện Á Châu và Phi Châu Học, nói như sau về quan hệViệt-Nga:Trung Quốc đã thay thế Liên Bang Sô Viết trong vai trò là nước đồng minh chủ yếu của Hà Nội,không những về phương diện lấy kinh tế và chính trị ra làm nền tảng cho mối quan hệ hai bên.
- Ngoạitrừ việc dựa vào ASEAN với mục đích duy trì quan hệ mậu dịch và thế cân bằng lực lượng trong khuvực Châu Á -Thái Bình Dương, nước Nga ngày nay không thực sự duy trì các mục tiêu chiến lượcnghiêm túc tại vùng Đông Nam Á, hoặc nói cho đúng hơn, không có đủ quyền lực để thực thi các mụctiêu chiến lược ấy nữa.Còn về phía Việt Nam, Giáo Sư Mazyrin cho rằng Hà Nội bây giờ chỉ tập trung vào một vài lĩnh vựcliên quan tới quyền lợi của Việt Nam, trong quan hệ với nước đồng minh cũ.Về phần mình, Việt Nam không còn được sự ủng hộ nghiêm túc nào từ Mascơva, liên quan tới nướcNga, Việt Nam bây giờ chỉ nhắm vào mục tiêu nới rộng mậu dịch, chủ yếu là mua lại vũ khí của Nga,khai thác các tài nguyên thiên nhiên, và bảo vệ công dân Việt Nam sinh sống tại nước Nga.Giáo Sư Mazyrin thừa nhận rằng quan hệ hợp tác giữa Việt Nam và nước Nga hiện nay không tốt đẹpnhư hai bên mong muốn.
- Ông đưa ra một vài ví dụ cụ thể để giải thích rõ hơn về quan hệ Việt-Nga –chủ yếu trong lĩnh vực kinh tế- trong câu chuyện với Hoài Hương sau đây:Giáo Sư Mazyrin kết luận rằng hai bên nên đi tìm những cơ chế mới để cố gắng phát triển mối quanhệ song phương.III.
- Quan điểm của Cố Vấn Chính Sách Việt Nam.Trong các diễn giả được ban tổ chức của Đại Học John Hopkins mời trình bày quan điểm về chínhsách đối ngoại của Việt Nam, có ông Đặng Đình Quý, Chủ Nhiệm ban Chính Trị tại Đại Sứ Quán ViệtNam ở Hoa Kỳ.
- Ông Đặng Đình Quý từng là Phó Giám Đốc Bộ Kế Hoạch Chính Sách và Chủ NhiệmBan Kinh Tế của Bộ Ngoại Giao Việt Nam.
- Trong phần mở đầu, ông Đặng Đình Quý đã đưa ra mộtvài nhận xét về những thay đổi từng giai đoạn trong chính sách đối ngoại của Việt Nam từ khi Hà Nộicho áp dụng chính sách mở cửa từ năm 1986.Ông Quý nói: có thể mô tả chính sách đối ngoại của Việt Nam qua hai cụm từ: thứ nhất là đa-dạng-hóa, và thứ hai là đa phương hướng.
- Ông Quý giải thích rằng đa dạng hóa là về mặt hình thức và vềkhu vực quan hệ, và đa hướng theo ý nghĩa đối tác và đối tượng trong quan hệ đối ngoại.
- Theo ôngQuý, thì trong 20 năm qua, chính sách đối ngoại ấy đã giúp Việt Nam chiếm được một chỗ đứng màHà Nội cho là tối ưu trên sân khấu thế giới.
- Ông Quý nhắc lại lời phát biểu của Đại Sứ Việt Nam tạiHoa Kỳ đêm hôm trước, rằng Việt Nam đã bình thường hóa quan hệ với tất cả các nước chủ yếu trênthế giới, và đây là lần đầu Việt Nam có quan hệ bình thường với tất cả các nước trên thế giới, và ôngnói tiếp rằng, nếu Việt Nam đạt được mục tiêu gia nhập WTO vào cuối năm nay, thì Việt Nam sẽ làthành viên của tất cả các tổ chức khu vực và quốc tế quan trọng nhất.Ông Đặng Đình Quý nói rằng thành quả trong các chính sách đối ngoại Việt Nam cho tới nay, có đượclà dựa trên nền tảng sự thành công của chương trình cải cách và đà phát triển kinh tế của Việt Nam,nhưng cùng lúc sự thành công trong chính sách đối ngoại cũng có ảnh hưởng lớn lao đến các chínhsách đối nội.Ông Quý nói sự thành công về mặt đối ngoại có thể tác động đến tư duy của các nhà làm chính sáchtheo hai cách:1.
- vị thế của đất nước trên sân khấu thế giới giúp các nhà làm chính sách tự tin hơn và độc lập hơntrong công tác lập ra chính sách đối nội, hoặc lập ra chính sách nói chung.2.
- nâng cao nhận thức của các nhà làm chính sách về nhu cầu cần phải bảo đảm chính sách đối nộiphải thích ứng với các tiêu chuẩn quốc tế, hoặc phải phù hợp với những cam kết mà Việt Nam đã hoặcsẽ ký kết với thế giới bên ngoài.Ông Quý nói tuy rằng theo dự kiến, Việt Nam trong tương lai sẽ tiếp tục chính sách đối ngoại đa dạngvà đa hướng, thế nhưng sẽ có một số thay đổi trong việc thực thi chính sách ấy.Ông Quý nói chính sách đối ngoại Việt Nam trong tương lai sẽ phải cải thiện để tăng hiệu năng và tậptrung hơn vào việc phục vụ mục tiêu mà nhà nước Việt Nam nhắm tới, là tới năm 2020, Việt Nam sẽtrở thành một nước công nghiệp hóa.
- Trước hết là ông Bùi HuyKhoát, Giáo Sư thỉnh giảng của Trường Đại Học Khoa Học Xã Hội Nhân Văn Hà Nội và thành phốHCM, hiện đang nghiên cứu về Liên Hiệp Châu Âu tại Viện Nghiên Cứu Châu âu.Theo các văn kiện của Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ X của Đảng Cộng sản ViệtNam: Đảng Cộng sản và Nhà nước Cộng hòa Xã hội Chủ nghĩa Việt Nam chủ trươngthực hiện đường lối đối ngoại độc lập, tự chủ, rộng mở, đa dạng hóa, đa phương hóa quanhệ quốc tế, chủ động hội nhập quốc tế với phương châm "Việt Nam sẵn sàng là bạn và làđối tác tin cậy của tất cả các nước trong cộng đồng thế giới phấn đấu vì hòa bình, độc lậpvà phát triển".Hiện nay, Việt Nam đã thiết lập quan hệ ngoại giao với 168 quốc gia thuộc tất cả cácchâu lục, bao gồm tất cả các nước và trung tâm chính trị lớn của thế giới.
- Việt Nam cũnglà thành viên của 63 tổ chức quốc tế và có quan hệ với hơn 500 tổ chức phi chính phủ.Đồng thời, Việt Nam đã có quan hệ thương mại với 165 nước và vùng lãnh thổ.
- Trong tổchức Liên Hiệp Quốc, Việt Nam đóng vai trò là ủy viên ECOSOC, ủy viên Hội đồngchấp hành UNDP, UNFPA và UPU.
- Vai trò đối ngoại của Việt Nam trong đời sống chínhtrị quốc tế đã được thể hiện thông qua việc tổ chức thành công Hội nghị Thượng đỉnhCộng đồng Pháp ngữ (La Francophonie) năm 1997, Hội nghị cấp cao ASEAN năm 1998,Hội thảo quốc tế về hợp tác và phát triển Việt Nam và châu Phi năm 2003Năm 2004, Việt Nam tổ chức Hội nghị cấp cao ASEM vào tháng 10Năm 2006, Việt Nam đăng cai tổ chức Hội nghị Thượng đỉnh APEC vào tháng 11.Từ ngày 11 tháng 1 năm 2007, Việt Nam chính thức trở thành thành viên thứ 150 của Tổchức Thương mại Thế giới (WTO).
- Đây là một bước ngoặt lớn trong tiến trình hội nhậpvới nền kinh tế quốc tế.Ngày 16 tháng 10 năm 2007, tại cuộc bỏ phiếu diễn ra ở phiên họp Đại hội đồng LiênHiệp Quốc ở New York, Việt Nam chính thức được bầu làm thành viên không thườngtrực Hội đồng Bảo an Liên Hiệp Quốc nhiệm kỳ 2008-2009.
- Trong lịch sử Việt Nam, không có một nước nào lại có nhiều ảnh hưởng và vấn đề đốivới Việt Nam như nước láng giềng khổng lồ Trung Quốc.
- Trải qua rất nhiều thăng trầm,biến cố, quan hệ Việt – Trung có xu hướng chung là phát triển hòa bình, ổn định đáp ứngnguyện vọng và phù hợp với lợi ích của cả hai bên.
- Tuy nhiên trong lịch sử hiện đại, giaiđoạn 1979-1989 chứng kiến quan hệ đối đầu giữa hai nước, thậm chí có lúc coi nhau nhưkẻ thù.
- Dưới sự tác động đan xen của cả yếu tố trong nước và bối cảnh bên ngoài, ViệtNam và Trung Quốc đã có những điều chỉnh chính sách nhất định để khai thông quan hệ,nối lại quan hệ chính trị bình thường và xúc tiến hợp tác toàn diện trên tất cả các mặt củađời sống kinh tế, xã hội…Không thể không kể đến những mốc quan trọng trong quan hệchính trị Việt – Trung như: năm 1979 xảy ra chiến tranh biên giới phía Bắc Việt Nam doTrung Quốc phát động, năm 1991 hai nước bình thường hóa quan hệ, năm 1999 lãnh đạohai nước xác định khuôn khổ quan hệ bằng phương châm 16 chữ: “Láng giềng hữu nghị,hợp tác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
- 1991-1999: tiến tới định vị và xác lập quan hệ hợptác.
- Vấn đề đặt ra là tại sao lại có những vận động như trên? Hay nói cách khác, nhữngyếu tố nào là chất xúc tác cho bình thường hóa quan hệ Việt – Trung? Sau khi bìnhthường hóa thì quan hệ Việt – Trung phát triển ra sao? Có còn giữ nguyên tính chất nhưthời kì những năm 50-60 trước kia hay không? Hợp tác toàn diện giữa hai nước có đảmbảo giải quyết ổn thỏa và triệt để những bất đồng còn tồn tại hay không? Tuy nhiên dothời gian trình bày hạn chế, em chỉ xin tập trung vào tìm hiểu và lý giải nguyên nhânchính thúc đẩy tiến trình phát triển của quan hệ chính trị Việt – Trung trong giai đoạn từ1986 đến 1999 nhìn từ góc độ Việt Nam.
- Trong bài khóa luận của mình em đã cố gắng điểm lại những sự kiện nổi bật trong quátrình vận động của quan hệ chính trị Việt – Trung.
- Do đó em chỉ xin nêu lại tóm tắtnhững bước phát triển của quan hệ hai nước trước và sau khi bình thường hóa.
- Thứ nhất,trước năm 1991, từ 1980 đến 1987, Việt Nam đã ngót hai mươi lần gửi công hàm đề nghịđàm phán bình thường hóa cho Trung Quốc nhưng đều không nhận được thiện chí.
- Điểmnổi bật trong giai đoạn này là việc Trung Quốc một mực lấy việc giải quyết vấn đềCampuchia là điều kiện tiên quyết cho bình thường hóa Việt – Trung.
- Điều này nghe cóvẻ vô lý khi mà quan hệ song phương lại chịu sự chi phối chủ yếu của tác nhân là bên thứba.
- Song trên thực tế, kể từ khi Việt Nam đưa quân tình nguyện vào Campuchia để giúpnhân dân nước này đối phó với nạn diệt chủng Pol Pot (cuối năm 1978) thì Trung Quốcluôn dùng “con bài” này để xử lý quan hệ với các nước lớn và “mặc cả” hay gây sức épđối với Việt Nam.
- Sở dĩ như thế là vì Trung Quốc đã ra sức tuyên truyền Việt Nam xâmlược Campuchia và mưu đồ lập Liên bang Đông Dương trên cộng đồng quốc tế.
- TrungQuốc muốn quốc tế hóa vấn đề Campuchia để có cơ hội thể hiện vai trò nước lớn củamình, để tranh thủ Mĩ và Liên Xô, để tăng cường ảnh hưởng ở khu vực Đông Nam Á.Ngược lại, mục đích ban đầu của phía Việt Nam là giúp nhân dân Campuchia chống lạibọn diệt chủng tàn bạo, duy trì hòa bình ổn định ở khu vực Đông Dương song việc dínhlíu quá sâu và quá lâu của Việt Nam tại đó đã vấp phải sự nghi ngại từ các nước ASEANvà thái độ không đồng tình của các nước phương Tây.
- Bị bao vây, cô lập trong thời giandài sau khi đất nước mới giành được độc lập năm 1975, Việt Nam rơi vào tình trạngkhủng hoảng và kém phát triển.
- Ngoại giao thì như thế, kinh tế trì trệ đã buộc Việt Namphải tiến hành mở cửa, cải cách, mở rộng quan hệ giao lưu với bên ngoài.
- Hơn nữa, xuthế phát triển của thế giới có những thay đổi nhất định đã phần nào tác động đến bướcchuyển này của Việt Nam.
- Trước hết là xu hướng hòa hoãn, từ đối đầu phe khối gay gắtsang hòa dịu, quan điểm bị chi phối bởi ý thức hệ thời chiến tranh lạnh không còn nữa.Thứ hai, bản thân những nước XHCN dẫn đầu như Liên Xô, Trung Quốc cũng có nhữngthay đổi, nền tảng ý thức hệ ràng buộc các nước này với Việt Nam trở không còn vữngchắc nữa khi hàng loạt các nước XHCN ở Đông Âu sụp đổ, Trung Quốc thì tuyên bốkhông giương cao ngọn cờ XHCN thế giới, mà chỉ bảo vệ XHCN của nước mình, pháttriển theo con đường XHCN mang màu sắc Trung Quốc.
- Đổi mới trở thành nhu cầu tấtyếu, Việt Nam không còn lối đi nào khác ngoài việc tuân theo sự phát triển của quy luậtkhách quan.
- Chính nhu cầu đổi mới đã góp phần thúc đẩy Việt Nam giải quyết vấn đềCampuchia, xích lại gần Trung Quốc, khai thông quan hệ với các nước ASEAN và cácnước lớn đặc biệt là Mĩ.
- Về phía Trung Quốc, mục đích xuyên suốt của Trung Quốc làquốc tế hóa vấn đề Campuchia, tham gia giải quyết vấn đề này để tạo ảnh hưởng tại khuvực, thể hiện vai trò nước lớn, tranh thủ giải quyết quan hệ với Mĩ và Liên Xô góp phầnthực hiện 4 hiện đại hóa.
- Tuy vậy, sự kiện Thiên An Môn tháng 6 năm 1989 cộng vớiviệc thay đổi thái độ của Mĩ về vấn đề Campuchia, Liên Xô khủng hoảng cuối nhữngnăm 90s…đã buộc Trung Quốc phải từ bỏ tham vọng của mình.
- Trung Quốc “gấp gáp”tổ chức bí mật hội nghị Thành Đô để Việt Nam và Trung Quốc có thể đi đến một thỏathuận về vấn đề Campuchia đồng thời tiến hành nối lại quan hệ bình thường giữa hainước.
- Kết quả là tháng 11 năm 1991, hai nước chính thức bình thường hóa quan hệ bằngviệc ra tuyên bố chung nhân chuyến thăm Trung Quốc của lãnh đạo Việt Nam.
- Tuy nhiên cần phải khẳng định ngay rằng, tính chất của quan hệ Việt – Trung khôngcòn thuần nhất là tình đồng chí, anh em như những năm 50-60 nữa mà đã được xác địnhrõ ràng “đồng chí nhưng không đồng minh” với tinh thần “thân nhưng không gần, sơnhưng không xa, đấu tranh nhưng không đánh nhau”.
- Kể từ sau khi bình thường hóa, quan hệ hai nước phát triển tốt đẹp trên mọi mặt nhưchính trị, kinh tế, thương mại, quốc phòng.
- Xét riêng quan hệ chính trị, việc trao đổi cácchuyến thăm cấp cao và cấp bộ ban ngành địa phương với nhịp độ đều đặn đã chứng tỏthiện chí của cả hai bên trong việc xây dựng quan hệ hợp tác đi vào thực chất.
- Các bảnthông cáo chung và tuyên bố chung 1999 đã khẳng định nhữngbước tiến quan trọng trong quan hệ hai nước, góp phần định hướng và chỉ đạo sự hợp táctrong cùng tồn tại hòa bình.
- Cụ thể, Việt Nam và Trung Quốc đã kí kếtHiệp định hợp tác kinh tế và lãnh sự (1992), Hiệp định biên mậu (1998), Hiệp định biêngiới trên bộ (1999) và Hiệp định phân định vịnh Bắc Bộ (2000).
- Quan hệ chính trị hai nước có được những chuyển biến tích cực trên là do sự tác độngcủa nhiều yếu tố từ môi trường bên trong mỗi nước và môi trường bên ngoài.
- Xét môitrường bên ngoài thì không thể không kể đến bối cảnh thế giới và khu vực thời kì 1986-1999 có rất nhiều biến động.
- Chiến tranh lạnh kết thúc (khi bức tường Béc-lin sụp đổnăm 1989) và CNXH ở Liên Xô và Đông Âu tan rã đã tạo ra một trật tự thế giới mới: Mĩlà siêu cường duy nhất trên thế giới song cũng gặp phải sự cạnh tranh mạnh mẽ từ cáccường quốc khác trên thế giới như Nhật, Nga, Trung Quốc và EU.
- Tại khu vực ĐNÁ,tình hình có xu hướng ổn định và kinh tế phát triển năng động.
- Nhưng sau khi khủnghoảng tài chính tiền tệ năm 1997, rất nhiều nền kinh tế ASEAN gặp phải khó khăn, suythoái.
- Trong khi Mĩ và các tổ chức tiền tệ lớn trên thế giới đứng ngoài cuộc thì TrungQuốc đã có những biện pháp thực chất như kiên trì không phá giá của đồng Nhân dân tệ.Hành động này, ngoài việc có lợi cho tốc độ tăng trưởng của kinh tế Trung Quốc ra, còngóp phần ổn định đồng tiền của các nước Đông Á và rộng hơn là các nước châu Á, từ đótạo điều kiện cho kinh tế khu vực tiếp tục phát triển theo hướng tích cực.
- Bên cạnh xu thế phát triển hòa bình, hợp tác là chủ đạo trong QHQT thì vẫn còntồn tại những nguy cơ đe dọa an ninh không chỉ của cả quốc gia mà cả khu vực và toàncầu.
- Trong bối cảnh chung đó, Trung Quốc và Việt Nam đều có những thay đổi chính sáchcho phù hợp với tình hình.
- Nguyên nhân xuất phát từ những điểm đồng giữa hai nước vềmô hình kinh tế xã hội, chế độ chính trị.
- Cả hai nước đều là những nước đang pháttriển cần có môi trường xung quanh hòa bình ổn định, việc hợp tác giữa hai nước có tácdụng phát huy lợi thế so sánh của mỗi bên đáp ứng nhu cầu phát triển kinh tế, ngoài racũng tạo được sự kiềm chế và cân bằng nhất định đặt trong mối quan hệ giữa các nướclớn.
- Bài khóa luận đã có những phân tích cụ thể, cho nên trong bản tóm tắt này em chỉxin trình bày về nguyên nhân thúc đẩy diễn biến quan hệ chính trị Việt – Trung nhìn từgóc độ chính sách của Việt Nam.
- Theo lý thuyết cơ bản về CSĐN, một trong những nhântố cơ bản tác động đến việc hoạch định chính sách là tư duy đối ngoại.
- Qua quá trình tìmhiểu và nghiên cứu, cá nhân em nhận thấy rằng sự thay đổi tư duy trong xác định bạn –thù là yếu tố chính dẫn đến sự thay đổi trong chính sách đối ngoại Việt Nam giai đoạnsau đổi mới cho đến khi bình thường hóa quan hệ Việt – Trung và khuôn khổ hóa quanhệ.
- Năm1980, trong HP của mình, Việt Nam khẳng định “Trung Quốc là bá quyền, là quân xâmlược cùng bè lũ tay sai của chúng ở Campuchia”.
- Đến nghị quyết 32 của Bộ Chính trịtháng 7 năm 1986, Việt Nam tuyên bố thực hiện “đấu tranh cùng tồn tại hòa bình” và“sẵn sàng đàm phán với Trung Quốc bất cứ lúc nào, bất cứ cấp nào và bất cứ ở đâunhằm bình thường hóa quan hệ hai nước”.
- Điều này chứng tỏ bước chuyển lớn trong tưduy xác định bạn – thù của Việt Nam vì trước đó, Việt Nam chủ trương chống Đế quốc,tư bản, bành trướng…trong một cuộc đấu tranh không khoan nhượng, bạn – thù rõ ràngtrắng đen.
- Tư tưởng đấu tranh cùng tồn tại hòa bình có nghĩa là Việt Nam vẫn phân biệtbạn – thù song đấu tranh chứ không đối kháng, đối đầu.
- Phải đến Nghị quyết 13 BCTtháng 5 năm 1988, Việt Nam mới thực sự đưa ra được quan điểm cụ thể, “thêm bạn bớtthù”.
- Cho dù vẫn phân định thế giới làm hai thái cực nhưng nó cho thấy Việt Nam hướngtới xu hướng “bạn” nhiều hơn, và ít “thù” hơn.
- Quan điểm này cho phép Việt Nam cócách xác định đối tượng linh hoạt và uyển chuyển hơn khi mà những đối tượng trước đâylà kẻ thù thì bây giờ không còn là kẻ thù nữa, không là “bạn” không bị đánh đồng là “kẻthù” như trước đây.
- Cách tiếp cận mới này đã có kết quả thực tiễn khi Việt Nam và TrungQuốc đã đạt được bình thường hóa vào năm 1991.
- Tư duy xác định bạn – thù đã tiến tớibước chuyển cơ bản với tuyên bố “Việt Nam muốn làm bạn với tất cả các nước trên thếgiới” trong văn kiện Đại hội Đảng VII năm 1991.
- Như vậy, từ nay Việt Nam không còncông khai coi đối tượng nào là kẻ thù nữa, sẵn sàng làm bạn với tất cả mọi nước.
- Ý thứchệ cộng sản đối lập CNXH với CNTB không còn chi phối tư duy đối ngoại của Việt Namnữa.
- Điều đó đã từng bước đóng góp vào việc thúc đẩy quan hệ Việt – Trung phát triểntoàn diện và được nâng lên tầm cao mới theo phương châm: “láng giềng hữu nghị, hợptác toàn diện, ổn định lâu dài, hướng tới tương lai”.
- Như vậy, quan điểm về bạn – thù là chất xúc tác cho việc thúc đẩy quan hệ Việt –Trung chuyển từ đối đầu sang đối thoại và hợp tác, từ đối kháng sang cùng tồn tại hòabình, từ thù địch sang bạn và đối tác.
- Cùng với sự tác động của các yếu tố khác như môitrường thế giới, khu vực, tình hình và chính sách của Trung Quốc, quan hệ chính trị Việt– Trung giai đoạn 1986-1999 đã vận động tích cực, phù hợp với nguyện vọng và nhu cầuchung của cả hai nước.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt