« Home « Kết quả tìm kiếm

Nghiên cứu thực trạng các rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học thành phố Thái Nguyên


Tóm tắt Xem thử

- NGHIÊN CỨU THỰC TRẠNG CÁC RỐI LOẠN HÀNH VI Ở HỌC SINH TIỂU HỌC THÀNH PHỐ THÁI NGUYÊN.
- Mục tiêu: Nghiên cứu thực trạng các rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học Thành phố Thái Nguyên.
- Nghiên cứu tiến hành trên 1638 học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 ở 2 trường tiểu học Nguyễn Viết Xuân và tiểu học Hoàng Văn Thụ Thành phố Thái Nguyên.
- Tỷ lệ các rối loạn hành vi là 2,99%.
- Trong đó, tăng động giảm chú ý chiếm 2,26%.
- Rối loạn ứng xử, bướng bỉnh chống đối và nói dối đều chiếm 0,49%..
- Các rối loạn hành vi đơn thuần chỉ chiếm tỷ lệ 46,94%, còn lại là các biểu hiện rối loạn kết hợp.
- Trầm cảm kết hợp với các rối loạn hành vi là phổ biến nhất..
- Ngoài ra, có thể gặp rối loạn hành vi kết hợp với lo âu, đái dầm, chậm phát triển tâm thần..
- Có thể gặp các trẻ có nhiều rối loạn phối hợp..
- Từ khóa: Thực trạng, các rối loạn hành vi, tăng động giảm chú ý, rối loạn ứng xử, rối loạn hỗn hợp..
- Rối loạn tâm thần, hành vi trẻ em và thanh thiếu niên là vấn đề phổ biến ở mọi quốc gia trên thế giới cũng như ở Việt Nam, trong đó, các rối loạn hành vi trẻ em và thanh thiếu niên là vấn đề đang rất được quan tâm hiện nay.
- Đặc biệt, trẻ em thường chịu tác động bởi nhiều yếu tố: môi trường sống, áp lực học hành, sang chấn tâm lý, sự biến đổi lớn về sinh học và cơ thể nên rất nhậy cảm và dễ bị tổn thương....Theo các số liệu điều tra gần đây của hầu hết các quốc gia trên thế giới các rối loạn hành vi ở trẻ em và thanh thiếu niên ngày càng có chiều hướng gia tăng.
- Các nghiên cứu cho thấy tỷ lệ mắc chung.
- của các rối loạn hành vi chiếm khoảng 4 – 20 % trẻ em lứa tuổi đi học, trong đó tăng động giảm chú ý gặp ở 4 – 7 % trẻ em và rối loạn bướng bỉnh chống đối, rối loạn ứng xử gặp ở 2 – 16 % trẻ em.
- Thêm nữa, các rối loạn hành vi trẻ em ít khi xuất hiện đơn độc mà thường phối hợp với nhiều rối loạn tâm thần khác làm cho bệnh cảnh lâm sàng thêm phức tạp và nặng nề [8, 10].
- Ở Việt Nam theo nghiên cứu của Nguyễn Thọ (2005) tỷ lệ học sinh tiểu học có biểu hiện của các rối loạn hành vi là 2,55% [3].
- Theo Chu Văn Toàn và cs., tỷ lệ các rối loạn hành vi ở trẻ 11 – 16 tuổi là từ .
- Tuy nhiên các rối loạn tâm thần và hành vi trẻ em thường không được phát hiện và can thiệp kịp thời, thích đáng.
- Thông thường, các trẻ mắc các rối loạn này được xem là các trẻ hư, phải chịu sự trừng phạt, sự ghét bỏ và sự xa lánh.
- Đa số trẻ này kém thích ứng với trường học, dễ chuyển trường, quan hệ với bạn bè kém, dễ mắc tệ nạn xã hội, khó điều chỉnh được cảm xúc, hành vi.
- Các rối loạn này kéo dài sẽ ảnh hưởng nhiều đến sự phát triển, hình thành nhân cách của đứa trẻ, ảnh hưởng đến nhận thức, đến học tập, sinh hoạt hàng ngày và đặc biệt là trẻ có thể có những hành vi nguy hiểm gây hậu quả nghiêm trọng dẫn đến việc bị pháp luật trừng phạt và thậm chí là nguy cơ tự sát.
- Với đặc điểm là trung tâm của khu vực Miền núi phía bắc, nơi tập trung nhiều khu công nghiệp và trường học nên Thái Nguyên có nhiều điều kiện thuận lợi nhưng cũng là tỉnh có nhiều vấn đề xã hội phức tạp trong đó có vấn đề rối loạn tâm thần và hành vi ở trẻ em và thanh thiếu niên.
- Chính vì vậy chúng tôi tiến hành nghiên cứu đề tài này với mục tiêu:.
- Xác định tỷ lệ các rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học Thành phố Thái Nguyên..
- Đối tượng và phương pháp nghiên cứu..
- Đối tượng nghiên cứu: 1638 học sinh từ lớp 1 đến lớp 5 ở 2 trường tiểu học Nguyễn Viết Xuân và tiểu học Hoàng Văn Thụ Thành phố Thái Nguyên..
- Thời gian và địa điểm nghiên cứu:.
- Phương pháp nghiên cứu: Mô tả cắt ngang 2.4.
- Mẫu nghiên cứu là toàn bộ học sinh trường tiểu học Hoàng Văn Thụ được cha mẹ đồng ý tham gia nghiên cứu sau khi đã được thông báo về yêu cầu, mục đích nghiên cứu..
- Tiêu chuẩn loại trừ: những trẻ mà cha mẹ từ chối tham gia nghiên cứu 2.5.
- Chỉ tiêu nghiên cứu:.
- Các đặc điểm nhóm nghiên cứu: tuổi, giới, dân tộc..
- Thực trạng, đặc điểm lâm sàng các rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học - Đặc điểm các rối loạn phối hợp trong các rối loạn hành vi..
- Thiết kế mẫu bệnh án nghiên cứu phù hợp với yêu cầu và mục đích nghiên cứu..
- 14điểm) để xác định chẩn đoán các rối loạn hành vi theo các tiêu chí chẩn đoán ICD10 [6]..
- Tiêu chuẩn chẩn đoán tăng động giảm chú ý (F 90):.
- Những rối loạn này thường xảy ra ở tất cả mọi nơi (ở nhà, ở trường, khi đi chơi)..
- Các rối loạn phải xuất hiện sớm trước 6 tuổi và phải tồn tại trong thời gian dài (6 tháng trở lên)..
- Tiêu chuẩn chẩn đoán các rối loạn hành vi (F 91):.
- Có mô hình hành vi lặp lại và dai dẳng, trong đó hoặc là các quyền cơ bản của những người khác hoặc những chuẩn mực hay luật lệ chính của xã hội phù hợp với lứa tuổi bị vi phạm, kéo dài ít nhất 6 tháng, trong thời gian đó có một số trong các triệu chứng sau (xem các thể riêng biệt về các tiêu chuẩn hoặc số lượng các triệu chứng).
- Rối loạn này không đáp ứng các tiêu chuẩn của rối loạn nhân cách chống đối xã hội (F60.2), tâm thần phân liệt (F20.
- các rối loạn lan tỏa sự phát triển (F84.
- hoặc rối loạn tăng động (F90.
- [Nếu các tiêu chuẩn đối với rối loạn cảm xúc (F93.
- được đáp ứng, chẩn đoán này nên là một rối loạn hỗn hợp cảm xúc và hành vi (F92.-)]..
- Kết quả nghiên cứu:.
- Bảng 1: Phân bố đối tượng nghiên cứu theo tuổi và giới Giới.
- Tỷ lệ.
- Nhận xét: Tỷ lệ trẻ ở các khối lớp không đồng đều nhau Tỷ lệ trẻ nam và nữ tương đương nhau..
- Đặc điểm dân tộc Số lượng Tỷ lệ.
- Các dân tộc khác chiếm tỷ lệ thấp..
- Rối loạn hành vi Số lượng Tỷ lệ.
- Tăng động giảm chú ý 37 2,26.
- Rối loạn ứng xử, bướng bỉnh chống đối 8 0,49.
- Tổng số trẻ có rối loạn 49 2,99.
- Nhận xét: số trẻ có các rối loạn hành vi chiếm tỷ lệ 2,99%, trong đó, tỷ lệ các rối loạn tăng động giảm chú ý là cao nhất trong các vấn đề rối loạn hành vi (2,26%)..
- Bảng 4: Đặc điểm rối loạn hành vi.
- Các hình thái Số lượng Tỷ lệ.
- Tăng động giảm chú ý đơn thuần 17 34,69.
- Rối loạn ứng xử, bướng bỉnh chống đối đơn thuần 3 6,12 Rối loạn ứng xử, bướng bỉnh chống đối phối hợp 5 10,20.
- Nhận xét: Các hình thái rối loạn hành vi phối hợp với nhau và phối hợp với các rối loạn khác chiếm tỷ lệ cao nhất..
- Bảng 5 : Đặc điểm các rối loạn kết hợp với các rối loạn hành vi.
- Đặc điểm nhóm nghiên cứu:.
- Nhóm nghiên cứu là những trẻ em tuổi từ 6 đến 10 tuổi, trong đó nhiều nhất là nhóm 6 tuổi (học sinh khối 1)..
- Tỷ lệ giữa học sinh nam và nữ trong nhóm nghiên cứu tương đối đồng đều: nam 49,21%, nữ 50,79%..
- Kết quả có 49 trẻ có biểu hiện rối loạn hành vi chiếm tỷ lệ 2,99%.
- Trong đó, Tăng động giảm chú ý chiếm đa số (37 trẻ chiếm tỷ lệ 2,26.
- Với kết quả nghiên cứu này của chúng tôi tỷ lệ trẻ bị mắc các rối loạn hành vi thấp hơn so với 1 số tác giả khác như: nghiên cứu dịch tễ các rối loạn hành vi ở trẻ 11 – 18 tuổi ở Thanh hóa (Chu Văn Toàn và cs., tỷ lệ các rối loạn hành vi từ .
- Nghiên cứu ở học sinh tiểu học Đồng Nai cho thấy tỷ lệ trẻ có vấn đề về hành vi là 2,55%, trong đó chủ yếu tăng động [3].
- Kết quả nghiên cứu của chúng tôi tương tự như nghiên cứu của Nguyễn Thọ ở Đồng Nai và thấp hơn so với nghiên cứu Chu Văn Toàn (Thanh hóa) có lẽ do nhóm trẻ chúng tôi tiến hành nghiên cứu là những trẻ nhỏ tuổi từ 6 đến 10.
- Đặc điểm lâm sàng các rối loạn hành vi:.
- Trong 49 trẻ có biểu hiện rối loạn hành vi thì tăng động giảm chú ý là chủ yếu (37 trẻ)trong đó, tăng động giảm chú ý đơn thuần là 17 trẻ chiếm tỷ lệ 34,69%.
- Tăng động giảm chú ý kết hợp rối loạn khác gặp ở 20 trẻ chiếm tỷ lệ 40,82% .Rối loạn ứng xử, bướng bỉnh chống đối và nói dối ít gặp hơn và chủ yếu là các rối loạn phối hợp.
- Kết quả này là phù hợp vì theo Barry Nurcomb và các tác giả khác, trẻ em lứa tuổi 6 – 11 tuổi các rối loạn hành vi thường gặp là tăng động giảm chú ý, còn các rối loạn hành vi ứng xử gặp ở trẻ lứa tuổi lớn hơn, đồng thời rối loạn hành vi thường đi kèm với một số rối loạn khác[8,9,10].
- Nghiên cứu của chúng tôi cũng phù hợp với 1 số tác giả khác của Việt Nam như Nguyễn Thọ, Chu Văn Toàn [3,5]..
- Đặc điểm rối loạn kết hợp trong các rối loạn hành vi.
- Trong 49 trẻ có rối loạn hành vi thì chỉ có 23 trẻ có rối loạn hành vi đơn thuần, còn lại chủ yếu là các rối loạn hành vi kết hợp (bảng 5).
- Trong đó trầm cảm kết hợp với các rối loạn hành vi là thường gặp nhất như trầm cảm kết hợp với tăng động, giảm chú ý (30,77.
- Ngoài ra còn gặp các rối loạn phối hợp giữa lo âu với rối loạn ứng xử, tăng động giảm chú ý với rối loạn ứng xử.
- và nhiều trẻ có trên 2 rối loạn.
- Các rối loạn kết hợp này thường làm cho bệnh nặng hơn và quá trình can thiệp gặp nhiều khó khăn hơn [11,12].
- Trên thực tế trong quá trình nghiên cứu chúng tôi đã gặp những trẻ có rối loạn hành vi nặng kết hợp với trầm cảm và lo âu quá mức dẫn đến có ý tưởng chán sống và hành vi tự sát..
- Nghiên cứu thực trạng các rối loạn hành vi ở học sinh tiểu học thành phố Thái nguyên chúng tôi nhận thấy:.
- Trong 1638 trẻ tham gia vào nghiên cứu tỷ lệ các rối loạn hành vi là 2,99%.
- Trong đó trầm cảm kết hợp với các rối loạn hành vi là phổ biến nhất.
- Cần tuyên truyền cho cộng đồng đặc biệt là cha mẹ và giáo viên về các rối loạn tâm thần và hành vi ở trẻ em để kịp thời nhận biết và can thiệp, giúp đỡ..
- Cần có thêm các nghiên cứu sâu rộng hơn về các rối loạn tâm thần và hành vi ở lứa tuổi học sinh tiểu học..
- Nguyễn Thị Kim Hạnh và cộng sự (2005), Nghiên cứu tỷ lệ mắc và một số yếu tố liên quan đến 10 nhóm bệnh tâm thần thường gặp tại Thanh Hoá..
- Nguyễn Hữu Kỳ (2004), Nghiên cứu tỷ lệ mắc và một số yếu tố liên quan đến 10 nhóm bệnh tâm thần thường gặp tại phường Đúc thành phố Huế..
- Nguyễn Thọ (2005), Khảo sát về vấn đề rối loạn phát triển tâm lý, hành vi và cảm xúc ở học sinh phổ thông, Kỷ yếu công trình NCKH-BV Tâm thần Trung ương II;.
- Nguyễn Văn Thọ ( 2007), Nghiên cứu thành lập mô hình chăm sóc sức khoẻ tâm thần cho học sinh phổ thông ở Đồng Nai, Kỷ yếu hội thảo khoa học “chăm sóc sức khoẻ tinh thần”, Hội khoa học Tâm lý – Giáo dục Việt Nam Tr: 245 – 265.
- Chu Văn Toàn (2008), Nghiên cứu các rối loạn tâm thần và hành vi ở trẻ em ở Thanh Hóa – NCKH Cấp Tỉnh..
- Tổ chức Y tế thế giới (1992), Phân loại bệnh Quốc tế lần thứ 10 về các rối loạn tâm thần và hành vi (ICD – 10), Geneva

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt