« Home « Kết quả tìm kiếm

NGUYÊN LÝ TRUYỀN HÌNH


Tóm tắt Xem thử

- 1, Nguyên lý truyền hình.
- Vô tuyến truyền hình là truyền hình ảnh của một vật thể hoặc cảnh đi xa bằng sóng vô tuyến điện..
- Nguyên lý cơ bản của kỹ thuật truyền hình có thể được giải thich một cách vắn tắt như sau:.
- Hình ảnh cần truyền được camera điện tử (video camera) biến đổi thành tín hiệu mang thông tin về độ sáng tối và màu sắc của vật.
- Tín hiệu này được gọi là tín hiệu hình hay tín hiệu Video..
- Tín hiệu hình sau khi được khuếch đại, xử lý sẽ được truyền đi trên sóng truyền hình nhờ máy phát hình hoặc hệ thống cáp.
- Tại nơi nhận máy thu hình tách tín hiệu hình nhận được từ sóng truyền hình rồi đưa đến đèn hình để biến đổi ngược lại thành hình ảnh tái hiện trên màn hình..
- Đương nhiên phần âm thanh đi kèm với hình ảnh cũng được biến đổi thành tín hiệu rồi cũng được truyền đi cùng tín hiệu hình.
- Tại nơi thu tín hiệu âm thanh được đưa ra loa để tạo ra âm thanh..
- Hệ thống truyền hình đen trắng chỉ có thể truyền đi và tái hiện được hình ảnh đen trắng, tức là độ sáng tối của hình ảnh..
- Hệ thống truyền hình màu ngoài việc truyền đi và tái hiện hình ảnh đen trắng còn phải truyền đi tái hiện màu sắc của vật..
- Để xây dựng hệ thống truyền hình màu, người ta dựa trên cơ sở nguyên lý ba màu cơ bản.
- Mọi màu sắc đều có thể phân chia thành ba thành phần mà cơ bản là:.
- Hay nói cách khác, bất kỳ một màu sắc nào có trong tự nhiên cũng đều có thể tạo ra được bằng cách ba màu đỏ, xanh là xanh lá cây theo những tỷ lệ thích hợp..
- Trên cơ sở quá trình hoạt động của hệ thống truyền hình màu có thể mô tả vắn tắt gồm năm quá trình vật lý sau:.
- Hình ảnh nhiều màu cần truyền tách ta thành ba ảnh một màu cơ bản:.
- Biến đổi ba ảnh màu cơ bản thành ba tín hiệu điện mang thông tin màu cơ bản tương ứng Er, Eb, Eg.
- Truyền các tín hiệu màu tới nơi thu.
- Tại nơi thu các tín hiệu này được biến đổi ngược lại thành ba ảnh màu cơ bản.
- Trong việc truyền các tín hiệu màu đi, người ta không truyền từng tín hiệu màu trên các kênh truyền riêng rẽ mà từ ba tín hiệu màu Er, Eb, Eg người ta mã hóa chúng thành một tín hiệu video màu tổng hợp rồi mới truyền đi chỉ trên một kênh truyền.
- Căn cứ vào phương pháp mã hóa tín hiệu video màu mà xuất hiện các hệ truyền hình khác nhau.
- Trên thế giới hiện nay tồn tại ba hệ truyền hình màu cơ bản là hệ:NTSC, PAL, SECAM..
- Điều hiển nhiên là tín hiệu truyền hình màu phát đi được mã hóa theo hệ màu nào thì phải dùng máy thu có bộ giải mã màu có hệ tương ứng..
- Khác với kỹ thuật điện ảnh, trong kỹ thuật truyền hình, người ta không truyền nguyên vẹn cả một hình ảnh (khuôn hình) đi tức thời mà hình ảnh cần truyền được phân thành những phân tử rất nhỏ gọi là điểm hình.
- Nhờ hệ thống quét hình điện tử camera các giá trị sáng tối của từng điểm hình được biến đổi thành tín hiệu video rồi truyền đi với tốc độ quét ra 1750 dòng (hệ FCC) hoặc 15625 dòng (hệ CCIR hoặc OIRT) trong một giây..
- Để tạo cảm giác hình ảnh chuyển động liên tục người ta cũng truyền đi 30 hình (hệ FCC) hoặc 25 hình (hệ CCIR và OIRT) trong một giây..
- Để tái hiện hình ảnh ở trên màn hình, trong máy thu hình (TV) cũng có một hệ thống quét hình làm việc với tốc độ quét như ở camera.
- 2, Các thiết bị truyền hình.
- Hệ thống truyền hình gồm rất nhiều thiết bị điện tử thực hiện các chức năng khác nhau: tạo tín hiệu hình, gia công xử lý tín hiệu, tạo các dạng kỹ xảo truyền hình, phát sóng, ghi, thu tín hiệu hình.
- Video camera hoặc camera truyền hình là loại thiết bị điện tử có chức năng biến đổi hình ảnh của vật quay thành tín hiệu video.
- Có nhiều loại camera: loại chuyên dùng trong các studio truyền hình, loại này có kích thước lớn, cấu tạo phức tạp nhưng lại cho chất lượng hình ảnh hoàn hảo như: độ nét cao, màu sắc trung thực..
- Có loại camera vừa dùng được trong các sudio, vừa dễ dàng mang đi lưu động ngoài trời, loại này có kích thước gọn, trọng lượng nhỏ, thao tác không mấy khó khăn, thuận tiện cho phóng viên truyền hình đi lưu động.
- Loại camera lưu động (portable camera thường có kèm theo một máy ghi.
- hình(portable video cassette recorder) để ghi tín hiệu video lấy từ camera lên băng từ video.
- Để gọn nhẹ hơn nữa, hiện nay người ta còn sản xuất loại máy gọi là CAMCORDER gồm hai phần: camera và máy ghi âm (recorder) lắp ghép với nhau, khi cần có thể tháo rời thành hai máy dùng riêng biệt..
- Để phục vụ cho những người không làm truyền hình chuyên nghiệp, người ta sản xuất loại máy quay video lưu động (video movie) với nhiều chủng loại và kích thước khác nhau.
- ở loại này cả hai phần camera và máy ghi hình đều được đặt trong một vỏ chung..
- Ống kính của video camera làm nhiệm vụ hồi tụ hình ảnh lên màn cảm quang của bộ phận thu hình điện tử nằm bên trong thân camera.
- Ta có thể đổi kích thước của khẩu độ đóng mở ống kính (IRIS DIAPHAM) để ánh sáng vào màn cảm quang nhiều hay ít mà cho hình ảnh rõ hay mờ theo ý muốn..
- Nhiều camera có bộ phận bù trừ ánh sáng giúp ta khắc phục vấn đề ngược sáng khi quay..
- Bộ phận lấy nét (Focus) giúp điều chỉnh để hình ảnh cần quay hội tụ vào màn cảm quang cho hình ảnh được nét..
- Ống thu hình làm nhiệm vụ biến đổi ánh sáng thành tín hiệu Video.
- Đối với camera màu, trước ống kính thu hình có lắp hệ thống lăng kính để tách ánh sáng thành ba dải ánh sáng màu R, G, B..
- Ngoài ra còn có các mạch điện tử tạo tín hiệu chuẩn (sọc màu), các tín hiệu cảnh báo, tạo ký tự để chỉ thị trạng thái làm việc của máy,… Mạch khuếch đại tín hiệu với chuyển mạch đặt bên ngoài camera có ký hiêu kà GAIN cùng các nấc chỉ 0dB, 6dB, 9dB, 18dB.
- cho phép tăng mức tín hiệu video khi quay cảnh chiếu sáng.
- Điều cần chú ý, khi sử dụng ngoài việc chỉnh lấy nét (Focus), để có được màu chính xác khi quay cần chọn đặt các filten ở các vị trí thích hợp và nhất thiết phải chỉnh cân bằng trắng (While Balance) phù hợp với điều kiện ánh sáng..
- Thực chất nó gần giống như một chiếc tivi đen trắng thu nhỏ giúp cho người quay phim quan sát được hình ảnh trên màn hình để bố cục khuôn hình, kiểm tra độ nét chất lượng hình quay.
- Ngoài các bộ phận chính trên, ở các camera lưu động thường gắn thêm một micro để tiện ghi âm thanh đồng bộ với hình ảnh..
- Đi kèm với video camera còn có thể có các thiết bị hỗ trợ như bộ phối hợp nguồn (AC camera adaptor) hoặc bộ điều khiển camera (CCU – Camera Control Unit)..
- 2.2, Máy ghi hình (Video cassetle recorder).
- Trong kỹ thuật truyền hình hiện nay để ghi tín hiệu video phần lớn đều dùng máy ghi hình từ tính (Video tape recorder hoặc video recorder) ghi lên băng từ (video tape).
- Nguyên lý ghi đọc trên băng từ của máy ghi hình về cơ bản giống như máy ghi âm.
- Song do đặc điểm của tín hiệu Video có giải tần số rất rộng so với dải tần số của tín hiệu âm thanh nên trong nguyên tắc làm việc và kết cấu máy có nhiều điểm khác biệt so với máy ghi âm như:.
- Trong các máy ghi hình đều có hệ thống mạch điện từ xử lý đặc biệt đối với tín hiệu Video (đen trắng và màu) trước khi ghi lên băng từ hoặc đọc băng từ ra..
- Các đầu từ ghi đọc tín hiệu (video head) có kích thước rất nhỏ, mảnh, khe từ hẹp và gắn trên trống đầu từ quay với tốc độ 25 hoặc 30 vòng/giây..
- Trên băng từ tín hiệu Video được ghi thành những vệt từ có bề rộng rất nhỏ và nằm trên một góc anpha từ 5 - 7 độ so với mép băng..
- Tín hiệu âm thanh được ghi dọc theo một mép băng từ.
- Còn dọc theo mép băng thứ hai được ghi tín hiệu điều khiển (CLT) dùng để làm chuẩn điều chỉnh tốc độ kéo băng khi đọc..
- Có hệ thống tự động ổn định tốc độ kéo băng và tốc độ quay trống đầu từ (hệ thống servo) đảm bảo cho tín hiệu video được ghi chính xác ở những vị trí nhất định trên băng từ và các đầu từ video đọc đúng vệt từ đã ghi..
- Ngoài ra trong các máy ghi hình dân dụng để thuận tiện cho người sử dụng, người ta còn lắp thêm đông hồ điện tử, bộ phận hẹn giờ, bộ thu tín hiệu truyền hình….
- Chúng có thể khác nhau về nhiều mặt: về cỡ băng (độ rộng băng) sử dụng, như hệ thống Umatic dùng ¾ inch (1 inch = 2,54cm), hệ VHS, Betamax dùng băng ½ inch (12,7mm), hệ video dùng băng 8mm.
- Do vậy, một băng được ghi ở hệ máy, hệ tiêu chuẩn kỹ thuật nào thì chỉ có thể đọc được trên các máy có hệ tiêu chuẩn cùng loại..
- Trong việc sử dụng máy ghi hình càn lưu ý tránh để máy bị bẩn bụi.
- khi bột từ bị rã, mốc có thể bịt kín khe làm việc của đầu từ vốn đã rất hẹp, khiến cho không thể ghi, đọc được..
- Băng để ở nơi nóng quá cũng dễ làm cho mép băng bị quăn, khiến việc ghi đọc tín hiệu điều khiển không được hoặc sai, dẫn tới tốc độ kéo băng sai,.
- Mục đich của việc dựng băng video là loại bỏ những hình ảnh, cảnh quay không sử dụng như cảnh mất nét, khuôn hình xấu, chất lượng hình ảnh không chấp nhận được và sắp xếp lại hình ảnh đã ghi được theo một trình tự mong muốn trong phim..
- Trường hợp đơn giản nhất là dùng máy ghi hình để đọc băng đã ghi, một máy thứ hai để ghi những hình ảnh đã chọn trên một băng mới.
- Việc thao tác chọn các điểm đầu và điểm cuối của từng cảnh và ghép nối các hình ảnh lại với nhau bằng cách bấm trên bàn điều khiển, dựng băng hoặc trực tiếp trên các máy ghi hình.
- Ở chế độ dựng này, cả ba tín hiệu: tín hiệu hình, tín hiệu âm thanh và tín hiệu điều khiển đều được ghi lại trên băng mới..
- Chế độ này chỉ thực hiện trên các máy ghi hình có chức năng dựng xen kẽ..
- Chức năng dựng xen kẽ (Insert Editing) cho phép ta thay thế một cảnh mới vào một cảnh đã ghi trước đó (vá hình), trong khi tiếng cũ vẫn có thể giữ nguyên..
- Hoặc ngược lại ta có thể thay thế một âm thanh cũ bằng một âm thanh mới trong khi vẫn giữ nguyên hình..
- Trên băng muốn vá hình hoặc vá tiếng thì đường tín hiệu hình hoặc tín hiệu tiếng cũ có thể bị xóa để ghi mới, song đường tín hiệu điều khiển (CTL) vẫn được giữ nguyên..
- Điều đó cho phép thu âm thanh đồng bộ với hình ảnh.
- Để thu được âm thanh chất lượng tốt nên dùng một micro ngoài rồi cắm vào lỗ Exmic (micro ngoài) trên camera hoặc vào máy ghi hình..
- Trong các phim ghi hình lưuđộng nên cố gắng ghi được tiếng hiện trường đồng thời với hình ảnh.
- Trường hợp cần ghi tiếng thuyết minh, lời bình luận hoặc thêm nhạc thì có thể thực hiện trong phòng thu qua bàn pha âm (Audio Mixer) để trộn chúng với nhau và điều chỉnh các to nhỏ cho hợp lý..
- Người quay phim về truyền thông phải nắm bắt được nội dung chủ đề thể hiện bằng ngôn ngữ hình ảnh trong các thể loại..
- Để cho câu chuyện diễn ra thật tự nhiên và hợp lí, chúng ta phải thay đổi khoảng cách và góc độ: Có thể để camera ở cùng một vị trỉ rồi dùng ống kính thay đổi tiêu cự lấy toàn cảnh rồi zoom vào trung cảnh, zoom vào cận cảnh, zoom vào đặc tả.
- Thông thường, camera hướng ống kính về phía người trả lời qua vai người phỏng vấn, chúng ta có thể cho người xem thấy dáng của người phóng viên, một phần gương mặt trông nghiêng của người phỏng vấn từ sau lưng tới..
- Hoặc có thể di chuyển tới lui thu hình hết qua vai người này đến qua vai.
- Cách tốt nhất để thực hiện sự thông báo này là di chuyển camera theo chiều ngang lưới qua của chủ thể trong khi quay, hoặc ta có thể đạo diễn cho các chủ thể, hoặc thay đổi vị trí trong cú bấm máy trong khi camera vẫn giữ nguyên ở một chỗ..
- Đừng bao giờ đảo ngược tầm nhìn của bạn đối với chủ thể mà không cung cấp những thông tin hình ảnh báo trước cho người xem, là bạn đổi hướng nhìn.
- Các mấu nối phải đồng trực, muốn phá trục hình ảnh phải có cảnh truyền.
- Nếu hành động thay đổi đột ngột thì phải nhớ thay đổi một số thông tin hình ảnh, có thể là bằng một cú quay phụ để báo cho người xem biết trước..
- Người quay phim, nếu chiều hướng của chuyển động thay đổi thì bạn phải giải thích bằng hình ảnh lí do đổi hướng..
- Nguồn sáng không đồng nhất cũng có thể gây khó chịu như nhân vật đột nhiên thay đổi mà không thấy tiến trình thay đổi giữa cảnh đêm và ngày, nên có cảnh đệm.
- Khi quay ngoài trời, cố gắng thu hình ở cùng giờ giấc trong ngày với những ánh sáng chiếu cùng một hướng ở mỗi cú quay.Tất nhiên không có thể điều khiển được thời tiết cho nên đôi lúc chúng ta phải tìm giải pháp thoả hiệp..
- Video – Camera có khả năng tạo ra chất lượng hình ảnh tối ưu dưới nhiều tình huống ánh sáng biến đổi, các chế độ mở ống kính tự động, kích sáng.
- sẽ họat động để nâng cao hình ảnh tự động hay điều chỉnh bằng tay.
- Những cơ chế nói trên chỉ kiểm soát được lượng sáng chứ không quyết định được tính thẩm mỹ của ánh sáng.
- Độ sáng mục tiêu đầu tiên của chúng ta là cung cấp cho camera một lượng sáng thích hợp để tạo hình ảnh rõ, trong sáng, chú ý đừng để thừa sáng hoặc thiếu sáng, hoặc thiếu chiều sâu.
- Khi chiếu sáng phải phải tạo được khối, chi tiết bị tối và người xem không nhìn thấy được, và tạo ra được khối và chi tiết nâng tính thẩm mỹ của ánh sáng..
- Nên tránh những nguồn sáng pha trộn bởi vì nó làm cho màu sắc của hình ảnh không đúng, còn để tái tạo lại hình ảnh chúng ta có thể dùng kính lọc xanh kêt hợp với giấy tản sáng..
- Ánh sáng bố trí thường cần bốn nguồn sáng cơ bản: đèn chủ quang, đèn phụ quay, đèn ven, đèn phông..
- 2.6.2, Ánh sáng thiên nhiên.
- Nguồn sáng ngoài trời thông thường là mặt trời, tính chất của nguồn sáng này thường biến đổi rất lớn từ ánh nắng trực tiếp, tương phản sang ánh sáng hoàn toàn phân tán của bầu trời đầy mây..
- Nhưng ánh sáng ngược có thể trở nên hấp dẫn khi ta dùng nguồn sáng phụ hay tấm phản quang.
- Mặt trời chếch sau chủ thể cho ánh sáng xem rất đẹp.
- Mặt trời lúc này là ánh sáng chính còn đằng trước chủ thể có thể dùng phản quang.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt