« Home « Kết quả tìm kiếm

Quân Pháp Chiếp Thành Vĩnh Long


Tóm tắt Xem thử

- Quân Pháp Chiếp Thành Vĩnh Long.
- Trong quá trình xâm chiếm Việt Nam nửa cuối thế kỷ 19, quân Pháp chiếm thành Vĩnh Long cả thảy hai lần.
- Lần đầu từ ngày 20 tháng 3 năm 1861 cho đến ngày 23 tháng 3 cùng năm, thì đạt được mục đích.
- Khi Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) được ký kết, ngày 25 tháng 5 năm 1863, thành trì này được thực dân Pháp trao trả lại cho nhà Nguyễn.
- Sau, vào ngày 20 tháng 6 năm 1867, thành Vĩnh Long thất thủ lần hai, dẫn đến cái chết của một nhân vật lịch sử được nhiều người bàn cải, đó chính là Phan Thanh Giản, người có trách nhiệm gìn giữ ba tỉnh miền Tây Nam Kỳ..
- Ngày 9 tháng 3 năm 1945, quân Nhật Bản nổ súng lật đổ thực dân Pháp trên toàn Đông Dương, kết thúc thời kỳ Pháp thuộc.
- Và mặc dù thành Vĩnh Long đã bị quân Pháp phá hủy ngay khi thất thủ, nhưng chủ quyền của miền đất này, kể từ ngày tháng đó, lại trở về với dân tộc Việt Nam..
- Phan Thanh Giản, người đã tuẫn tiết sau khi thành Vĩnh Long thất thủ lần hai Khác với cách ứng phó của một số tướng tá nhà Nguyễn, ngay từ lúc quân Pháp san bằng Đại đồn Chí Hòa, quân triều đình rút chạy.
- Cho nên, theo giáo sư Nguyễn Phan Quang, mặc dù quân Pháp chiếm được Định Tường, nhưng chỉ đóng được ba đồn là Gia Thạnh, Chợ Gạo và Gò Công.
- Bonard được cử sang thay, quyết tâm thực hiện lệnh của Bộ trưởng Hải quân Pháp là phải giữ vững sự đô hộ của chúng ta ở Sài Gòn...ở đó chúng có thể ở lại lâu dài.[2].
- Và kế hoạch đánh chiếm Biên Hòa và Vĩnh Long liền được thảo ra, và nhanh chóng thực hiện nhằm mở rộng khả năng càn quét, bao vây, tiêu diệt các lực lượng chống đối trên một địa bàn rộng lớn từ sông Đồng Nai đến sông Tiền, sông Hậu..
- Thất thủ lần đầu.
- Trước đó, khi nghe tin quân Pháp sắp đánh Biên Hòa và Vĩnh Long, triều đình Huế sai tướng Nguyễn Tri Phương đem hai vệ quân phối hợp với hai ngàn đã phái đi trước, đang đóng ở Khánh Hòa, vào cấp cứu.
- Nhưng quân chưa đến nơi, thì tướng Nguyễn Bá Nghi đã chạy tuốt về Bình Thuận, sau khi để thành Biên Hòa thất thủ (18 tháng 12 năm 1861)..
- Thừa thắng, vào nửa tháng 3 năm 1862, 11 chiến thuyền của Pháp từ Định Tường kéo sang tấn công hai đồn lũy ở Vĩnh Long là Vĩnh Tùng (do Lãnh binh Tôn Thất Tuấn, Nguyễn Thái, Lê Đình Cửu trấn giữ), Thanh Mỹ (do Lãnh binh Hồ Lực, Ngô Thành, Trương Văn Thành trấn giữ).
- Ngày 20 tháng 3 năm 1862, đoàn chiến thuyền của Pháp đã áp sát thành Vĩnh Long, rồi bắt đầu nổ súng.
- Cho nên, sáng hôm sau (23 tháng 2), quân Pháp ung dung tiến vào chiếm đoạt thành, mà không gặp bất kỳ sự kháng cự nào nữa.
- Vào thành, quân Pháp thu được 68 cổ đại bác..
- Nghe tin thành Vĩnh Long đã mất, vua Tự Đức trách Trương Văn Uyển là không biết chọn chỗ hiểm yếu mà đặt đồn, làm thành cái thế không thể bị đánh bật, mà chỉ chuyên dựa vào hai nơi là Thanh Mỹ và Vĩnh Tùng.
- Đầu tháng 5 năm 1862, sau khi cùng các đình thần bàn bạc, vua Tự Đức sai quan thông báo cho phía Pháp đề nghị "giảng hòa".
- Lúc Vĩnh Long thất thủ (lần đầu), đó chính là lúc nghĩa quân hoạt động rất mạnh ở các nơi.
- Làm cho quân Pháp lan rộng từ Bà Rịa tới Vĩnh Long, nhưng họ mất rất nhiều căn cứ ở bên trong, bị tập kích khắp nơi khi họ ló ra, tình thế rất là nguy khốn.
- Lập tức Đô đốc Bonard sai Simon đáp thuyền máy đến Huế đưa ra ba yêu sách...Cuối cùng, ngày 5 tháng 6 năm 1862, Hiệp ước Nhâm Tuất được ký kết, mà phần thua thiệt.
- Theo hiệp ước trên, thực dân Pháp phải sớm trao trả thành Vĩnh Long, nhưng lấy cớ chưa dẹp yên "giặc giã", nên mãi đến ngày 25 tháng 5 năm 1863, họ mới thực hiện..
- Thất thủ lần hai.
- Súng thần công của thành Vĩnh Long xưa, đang được trưng bày trong khuôn viên Văn Thánh Miếu Vĩnh Long.
- Sau khi Hiệp ước Nhâm Tuất được phê chuẩn, vua Tự Đức cử Phan Thanh Giản cầm đầu phái bộ sang Pháp, xin chuộc ba tỉnh miền Đông Nam Kỳ.
- Đề cập đến giai đoạn này, sách Việt Nam sử lược chép:.
- Cuối năm Giáp Tý (1864) quan thượng thư Hải quân bộ là hầu tước De Chasseloup Laubat dâng sớ tâu với Pháp Hoàng nhất định xin không cho nước Nam chuộc ba tỉnh.
- Năm Giáp Dần niên hiệu Tự Đức thứ thực dân Pháp đã chiếm xong Cam Bốt, ba tỉnh miền Đông mà họ đánh chiếm được, cũng dần được ổn định.
- song, ở ba tỉnh miền Tây, thì phong trào kháng Pháp vẫn còn khá mạnh mẽ.
- Chính vì vậy, chừng nào chưa chiếm được ba tỉnh thành trên, thì họ còn chưa yên..
- Năm Ất Sửu (1865), De Chasseloup Laubat triệu tướng De la Grandière về Pháp để hiểu rõ thêm tình hình ở Nam Kỳ.
- Cuối cùng, việc đánh chiếm ba tỉnh miền Tây là Vĩnh Long, An Giang, Hà Tiên đã được chấp thuận.
- Về lại Nam Kỳ, lấy cớ triều đình Huế bất lực trong việc đàn áp quân “phiến loạn”, La Grandière thảo ngay kế hoạch đánh chiếm ba tỉnh miền Tây[5]..
- Theo sách Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX), thì:.
- Ngày 18 tháng 6 năm 1867, quân Pháp gồm 1.200 lính cùng với 400 lính tập người Việt tập họp ở Mỹ Tho.
- Ngày 19, từ Sài Gòn, De la Grandière chỉ huy một đội tàu gồm 16 chiếc cũng tới Mỹ Tho, và rồi cho hành quân ngay trong đêm.
- Sáng ngày 20, đoàn quân thủy bộ của Pháp đã tới trước thành Vĩnh Long.
- La Grandière cho quân đổ bộ, và đưa thư đòi kinh lược Phan Thanh Giản giao nộp thành không điều kiện..
- Trước sức mạnh áp đảo của Pháp về mặt quân sự, biết thế không thể giữ nổi, Phan Thanh Giản đã quyết định trao thành, tránh đổ máu vô ích, với yêu cầu người Pháp đừng quấy nhiễu dân chúng, và được giữ lại kho tiền để chi trả chiến phí theo Hiệp ước Nhâm Tuất...De La Grandière bằng lòng, nhưng ngay khi Phan Thanh Giản vừa bước khỏi tàu chiến Pháp ra về thì viên tướng này cho bộ binh nối gót theo sau rồi chia làm bốn cánh vào chiếm đóng thành.
- Tiếp đó, De la Grandière còn yêu cầu Phan Thanh Giản viết thư khuyên quan quân ở hai tỉnh còn lại là An Giang và Hà Tiên phải hạ khí giới, giao nộp thành trì....
- Sau khi làm theo yêu cầu của đối phương, Kinh lược Phan Thanh Giản tuyệt thực suốt 17 ngày, rồi uống thuốc độc tự tử vào ngày 4 tháng 8 năm 1867, sau khi dặn dò con cái phải làm ruộng mà ăn, chứ không được nhận chức quan gì của Pháp.
- Ngày 21 tháng 6 năm 1867, quân Pháp chiếm gọn tỉnh An Giang.
- Ba ngày sau (24 tháng 6), quân Pháp chiếm luôn Hà Tiên.
- Từ đó toàn cõi Nam Kỳ trở thành thuộc địa của Pháp.
- Bấy giờ tại Pháp đình Napoléon III thấy trong các triều thần phái thì chủ hòa, phái thì chủ chiến, lấy làm hoang mang về vấn đề Việt Nam.
- Rồi khi phái đoàn trở về Pháp, sau đó mới có lệnh xâm lăng ba tỉnh thuộc vùng Hậu Giang.
- Lúc này De la Grandière cũng đã sửa soạn xong chiến sự miền Tây (sắp đặt lệnh hành quân, việc bố phòng các vị trí hiện hữu, tuyển mộ người cho bộ máy hành chính mới, lấy lính bản xứ để đưa đến các vùng sắp chiếm đóng)..
- Ngày 17 và 18 tháng 6 năm 1867, quân Pháp lên đường gồm 1.000 người Âu Châu và 4.000 lính tập.
- Ngày 20 De la Grandière có mặt trong trận đánh Vĩnh Long.
- Nhờ có sa mù của buổi sớm mai, đoàn tàu chiến của Pháp tiến đến đậu trước thành Vĩnh Long mà bên Việt không hay chi hết.
- Đến nơi, Bộ tham mưu Pháp phái Legrand de la Liraye đem một tối hậu thư vào thành buộc Phan Thanh Giản phải nhượng Vĩnh Long, An Giang (Châu Đốc) và Hà Tiên.
- Quan Kinh lược Phan cùng án sát Võ Doãn Thanh hết sức lúng túng, xin hội kiến với De la Grandière và xin khoan hạn để hỏi ý kiến triều đình vì biết rằng không thể đối phó nổi bằng quân sự với Pháp.
- Hôm ấy là ngày 20 tháng 6 năm 1867.[6]..
- Sau khi thất thủ.
- Một mảnh vỡ của khẩu đại bác cùng hai viên đạn thời Nguyễn đang được thờ tại Công Thần Miếu Vĩnh Long.
- Khi quân Pháp một lần nữa lại ung dung tiến vào chiếm đóng thành Vĩnh Long, thì ở đây đang chuẩn bị kỳ thi Hương.
- Sách Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX) chép: Ba vị đốc học đang lo tổ chức kỳ thi rất phẩn uất vì sao quân Pháp ngang nhiên tiến vào mà không hề gặp sự kháng cự nào, bèn cùng nhau bỏ ra thành, xuống thuyền cố chèo đi Châu Đốc để tổ chức kháng Pháp.
- Biết được, quân Pháp xuống thuyền đuổi theo bắt lại, một vị đốc học già đã tự sát.
- Sau khi thành Vĩnh Long thất thủ và bị chiếm đóng, nhân dân ở nhiều nơi vẫn tiếp tục phất cao ngọn cờ kháng chiến, tuy điều kiện không còn thuận lợi như trước nữa.
- Tuy nhiên, ở Bến Tre, Vĩnh Long...Phan Tôn cùng Phan Liêm (đều là con Phan Thanh Giản) vẫn cương quyết đứng lên khởi nghĩa .
- Thủ Khoa Huân, sau khi bị đày rồi được tha (tháng 2, năm 1869), lại tiếp tục kháng Pháp....
- Cây Đa Cửa Hữu cùng một miếu thờ, di tích duy nhất còn lại của thành Vĩnh Long xưa.Sau khi thành Vĩnh Long thất thủ lần đầu, tiếp theo là Hiệp ước Nhâm Tuất (1862) ra đời, danh sĩ Phan Văn Trị đã làm một bài thơ như sau:.
- Thất tỉnh Vĩnh Long.
- Ngày thành Vĩnh Long thất thủ lần đầu ghi theo GS.
- .Hỏi đáp lịch sử (tập 4, tr.
- Sách Việt Nam thế kỷ XIX và Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX) đều ghi ngày 23, tổng đốc Uyển cho đốt kho tàng, ngày 24 quân Pháp tiến vào thành, tức muộn hơn một ngày..
- Việt Nam thế kỷ XIX tr.
- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược: [1].
- Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX), tr.
- Tị địa: Đây là trào lưu bất hợp tác với Pháp sau khi Pháp chiếm đóng Sài Gòn và ba tỉnh Miền Đông Nam Kỳ của tầng lớp quan lại, nho sĩ, những người yêu nước Việt Nam..
- lần thứ nhất xảy ra ngay sau khi triều đình Huế thuận giao ba tỉnh miền Đông cho thực dân Pháp (tháng 6 năm 1862)..
- Dẫn theo Lịch sử Việt Nam (1858- cuối XIX), tr.
- Trần Trọng Kim, Việt Nam sử lược.
- Huỳnh Minh, Vĩnh Long xưa.
- Nguyễn Phan Quang, Việt Nam thế kỷ XIX .
- Ngô Thị Chính, Lịch sử Việt Nam (1858-cuối XIX) (quyển 3, tập 1, phần 1).
- Nhóm Nhân Văn Trẻ, Hỏi đáp lịch sử (tập 4)

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt