« Home « Kết quả tìm kiếm

Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm khi đơn yêu cầu bảo hiểm có yêu cầu không rõ ràng


Tóm tắt Xem thử

- Bài viết phân tích, bình luận án lệ số 22/2018/AL dựa trên việc áp dụng các quy định về giải thích hợp đồng và việc tòa án bổ sung phạm vi yêu cầu của nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
- Thứ nhất, tòa án đã áp dụng các quy định về giải thích hợp đồng để giải quyết tranh chấp khi các bên có cách hiểu không thống nhất về yêu cầu nêu ra tại đơn yêu cầu bảo hiểm để từ đó đưa ra giải pháp phù hợp với quy định của pháp luật.
- Thứ hai, tòa án đã bổ sung phạm vi của nghĩa vụ cung cấp thông tin để hoàn thiện quy định của pháp luật thông qua việc xác định tiêu chí thông tin được yêu cầu là căn cứ quyết định việc xác lập hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
- Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm được quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật kinh doanh bảo hiểm năm 2000, sửa đổi bổ sung năm 2010 và 2019 (sau đây gọi là Luật kinh doanh bảo hiểm), và nếu bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ này thì phải chịu một số hậu quả nhất định.
- Tuy nhiên, trên thực tế, việc xác định bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin còn gặp nhiều khó khăn, đặc biệt là trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm hoặc quy tắc bảo hiểm hoặc đơn yêu cầu bảo hiểm có yêu cầu không rõ ràng về việc kê khai tình trạng bệnh lý của người được bảo hiểm.
- Theo bản án trên thì bà Trương Thị H tham gia hai hợp đồng bảo hiểm với Công ty C vào các ngày và 25/3/2009.
- hiểm nên đã từ chối chi trả quyền lợi bảo hiểm và quyết định hủy bỏ hai hợp đồng bảo hiểm..
- Theo nội dung kháng cáo, bị đơn cho rằng bà H đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin về tình trạng bệnh lý khi ký hợp đồng bảo hiểm.
- Do đó, không có cơ sở để cho rằng bà H cung cấp thông tin không trung thực để từ chối chi trả bảo hiểm.
- Theo ý kiến của đại diện Viện kiểm sát nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh tham gia phiên tòa thì không đủ cơ sở để xác định bà H khai không trung thực, vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin, do đó không đủ điều kiện để huỷ hai hợp đồng bảo hiểm.
- Trong vụ án này, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh cần xác định liệu bà H có vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
- Tòa án bằng cách áp dụng các quy định về giải thích hợp đồng khi có điều khoản hoặc ngôn từ khó hiểu và xác định thông tin được yêu cầu trong trường hợp này không phải là căn cứ quyết định việc các bên xác lập hợp đồng bảo hiểm nhân thọ đã quyết định người mua bảo hiểm không vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi ký hợp đồng bảo hiểm, đơn yêu cầu bảo hiểm..
- Trong bản án này, Tòa án nhân dân Thành phố Hồ Chí Minh đã làm rõ hai vấn đề liên quan đến nghĩa vụ cung cấp thông tin về tình trạng bệnh lý trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ.
- khoản của đơn yêu cầu bảo hiểm không rõ ràng.
- “thông tin được yêu cầu kê khai là căn cứ quyết định việc xác lập hợp đồng bảo hiểm” để xác định có hay không việc vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm..
- Theo quy định tại điểm b khoản 2 Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm thì bên mua bảo hiểm có nghĩa vụ kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Do đó, người mua bảo hiểm chỉ kê khai các thông tin theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Có thể thấy, trong vụ án này, Công ty C đã đưa vào Đơn yêu cầu bảo hiểm nội dung không rõ ràng và đã viện dẫn nội dung này để xác định rằng bên mua bảo hiểm đã vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm, do đó đã từ chối nghĩa vụ thanh toán tiền bảo hiểm, nội dung này rõ ràng là gây bất lợi cho bên mua bảo hiểm với tư cách là một bên yếu thế.
- Giải thích hợp đồng bảo hiểm.
- Thẩm phán đã áp dụng quy định về giải thích hợp đồng theo mẫu để giải thích nội dung tại câu hỏi số 54 của Đơn yêu cầu bảo hiểm.
- Trong vụ án này, cần xác định liệu hợp đồng bảo hiểm có phải là hợp đồng theo mẫu hay không.
- Đối với hợp đồng bảo hiểm, doanh nghiệp bảo hiểm đưa ra tất cả các điều khoản của hợp đồng, nếu bên mua bảo hiểm đồng ý tham gia bảo hiểm đồng nghĩa với việc chấp nhận toàn bộ nội.
- dung hợp đồng theo điều khoản mà doanh nghiệp bảo hiểm đã đưa ra, và không được đàm phán, thoả thuận về việc bổ sung, sửa đổi điều khoản của hợp đồng bảo hiểm 24 .
- Vì vậy, có thể kết luận hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng theo mẫu.
- Do đó, theo quy đinh tại khoản 2 Điều 405 BLDS năm 2005 thì khi hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu bất lợi khi giải thích điều khoản đó.
- Trong vụ án này, doanh nghiệp bảo hiểm là Công ty C, bên mua bảo hiểm là bà H, do đó Công ty C phải chịu bất lợi khi giải thích về điều khoản không rõ ràng do chính bên này đưa ra..
- Bên cạnh đó, việc giải thích hợp đồng bảo hiểm còn được quy định tại Điều 21 Luật kinh doanh bảo hiểm như sau: “Trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng thì điều khoản đó được giải thích theo hướng có lợi cho người mua bảo hiểm”.
- Do đó, trong vụ án này, cụm từ “rối loạn tại dạ dày” tại câu hỏi số 54 của Đơn yêu cầu bảo hiểm là một cụm từ không rõ ràng, do đó, cần giải thích theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm là bà H..
- Tòa án lựa chọn áp dụng các quy định về giải thích hợp đồng dân sự, giải thích hợp đồng theo mẫu và giải thích hợp đồng bảo hiểm để xác định việc ưu tiên cho bên mua bảo hiểm khi đơn yêu cầu bảo hiểm không rõ ràng là hoàn toàn phù hợp với quy định pháp luật.
- Giải pháp này có tính thuyết phục cũng như tính nhân văn khi ưu tiên cho bên yếu thế trong hợp đồng theo mẫu đồng thời xác định doanh nghiệp bảo hiểm phải chịu rủi ro khi đã tự mình đưa ra các điều khoản không rõ ràng..
- Khác với pháp luật Việt Nam, pháp luật Pháp không có quy định riêng về việc giải thích hợp đồng bảo hiểm, việc giải thích hợp đồng bảo hiểm được áp dụng theo các quy định từ Điều 1188 đến 1192 của Bộ luật dân sự 25 .
- Theo định nghĩa này, thì pháp luật Pháp, tương tự pháp luật Việt Nam cũng cho rằng hợp đồng bảo hiểm là hợp đồng theo mẫu.
- Theo quy định này, thì pháp luật Pháp cũng lựa chọn giải pháp giải thích ưu tiên cho bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm 27 .
- 24 Trần Linh Huân, “Hoàn thiện quy định pháp luật về nội dung, hình thức hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, Nhà nước và Pháp luật, số 2/2021, tr.
- 25 Louis Perdrix, Bộ luật bảo hiểm và tương trợ năm 2021, giải thích và bình luận, Nxb.
- 133-2 Bộ luật tiêu dùng, trong trường hợp hợp đồng bảo hiểm có điều khoản không rõ ràng, thẩm phán phải giải thích điều khoản đó theo hướng có lợi cho bên mua bảo hiểm, người tiêu dùng” 28 .
- Có thể thấy, theo pháp luật Việt Nam và pháp luật Pháp, khi doanh nghiệp bảo hiểm đưa vào hợp đồng bảo hiểm, đơn yêu cầu bảo hiểm hoặc quy tắc bảo hiểm một điều khoản không rõ ràng thì họ phải chịu những hậu quả nhất định và điều đó giải thích vì sao doanh nghiệp bảo hiểm bị bất lợi khi giải thích hợp đồng.
- Do đó đặt ra yêu cầu về tính rõ ràng và chính xác của các điều khoản, các yêu cầu mà doanh nghiệp bảo hiểm đề nghị..
- Án lệ này ngoài việc áp dụng các quy định về giải thích hợp đồng có lợi cho bên mua bảo hiểm khi yêu cầu bảo hiểm không rõ ràng thì còn bổ sung tiêu chí “thông tin được yêu cầu kê khai là căn cứ quyết định việc xác lập hợp đồng bảo hiểm”..
- Bổ sung phạm vi của nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm 2.1.
- Quy định pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm.
- Việc cung cấp đầy đủ thông tin trong giao kết hợp đồng bảo hiểm là một yếu tố quan trọng để các bên quyết định việc giao kết hợp đồng bảo hiểm nhằm lường trước những rủi ro và tránh các tranh chấp có thể phát sinh 29 .
- Do đó, những thông tin mà bên mua bảo hiểm cung cấp cho doanh nghiệp bảo hiểm phải mang tính trung thực và đầy đủ 30 .
- Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm được quy định tại khoản 2 Điều 18 Luật kinh doanh bảo hiểm như sau: “Kê khai đầy đủ, trung thực mọi chi tiết có liên quan đến hợp đồng bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm”.
- Theo quy định này, thì nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm phát sinh theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Nghĩa vụ cung cấp thông tin trong trường hợp này được hiểu tương đương với nghĩa vụ giải trình của bên mua bảo hiểm để phân biệt với phạm vi rộng hơn của nghĩa vụ không che dấu thông tin 31 .
- Việc hoàn thành đầy đủ và chính xác nghĩa vụ này là một trong những điều kiện để bên mua bảo hiểm yêu cầu.
- 29 Đoàn Đức Lương, Lê Văn Vũ, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam”, Pháp luật và Thực tiễn, số 01/2018, tr.
- 30 Nguyễn Thị Thủy, Lê Thủy Tiên, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, Nghiên cúu Lập pháp, số 5 (405.
- 31 Hoàng Minh Thái, Nguyễn Thị Tố Như, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm”, Luật học, số 7/2016, tr.
- doanh nghiệp bảo hiểm thực hiện nghĩa vụ trả tiền bảo hiểm cho người thụ hưởng hoặc bồi thường khi sự kiện bảo hiểm xảy ra 32.
- Trái lại, nếu bên mua bảo hiểm vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin thì phải chịu một số hậu quả nhất định.
- Theo quy định tại khoản 2 Điều 19 Luật kinh doanh bảo hiểm thì “Doanh nghiệp bảo hiểm có quyền đơn phương đình chỉ hợp đồng bảo hiểm và thu phí bảo hiểm đến thời điểm đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm khi bên mua bảo hiểm có một trong những hành vi sau đây: a) Cố ý cung cấp thông tin sai sự thật nhằm giao kết hợp đồng bảo hiểm để được trả tiền bảo hiểm hoặc được bồi thường.
- b) Không thực hiện nghĩa vụ cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm theo quy định tại điểm c khoản 2 Điều 18 của Luật này”.
- Đối với doanh nghiệp bảo hiểm, nghĩa vụ cung cấp thông tin của họ chỉ dừng lại ở việc giải thích hợp đồng và sản phẩm bảo hiểm 33 .
- Trong khi đó, nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm diễn ra trong thời gian dài, từ khi giao kết hợp đồng đến khi thanh lý hợp đồng bảo hiểm với nhiều thông tin cần phải thông báo khi có thay đổi.
- Trong suốt quá trình đó, người mua bảo hiểm có thể vô ý không kịp thời cung cấp hoặc có sai sót trong cung cấp thông tin cho doanh nghiệp bảo hiểm và doanh nghiệp bảo hiểm có thể căn cứ vào hành vi này để đơn phương đình chỉ thực hiện hợp đồng bảo hiểm.
- Điều này là không công bằng đối với bên mua bảo hiểm 34.
- Bên cạnh đó, Luật kinh doanh bảo hiểm còn quy định về trường hợp hợp đồng bảo hiểm vô hiệu khi “bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm có hành vi lừa dối khi giao kết hợp đồng bảo hiểm” tại điểm d khoản 1 Điều 22.
- Theo quy định này thì hành vi lừa dối của bên mua bảo hiểm hoặc doanh nghiệp bảo hiểm sẽ làm cho hợp đồng bảo hiểm vô hiệu.
- Tuy nhiên, khi kết hợp quy định này và quy định tại khoản 2 Điều 19 của Luật kinh doanh bảo hiểm thì lại dẫn đến khó khăn khi áp dụng trên thực tế vì pháp luật không nói rõ, lúc nào hành vi cố ý cung cấp thông tin sai sẽ dẫn đến hợp đồng vô hiệu và lúc nào thì đơn phương chấm dứt hợp đồng 36.
- 32 Hoàng Minh Thái, Nguyễn Thị Tố Như, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm”, Luật học, số 7/2016, tr.
- 33 Nguyễn Thị Thủy, Lê Thủy Tiên, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, tlđd, tr.
- 34 Nguyễn Thị Thủy, Lê Thủy Tiên, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, tlđd, tr.
- 36 Nguyễn Thị Thủy, Pháp luật hợp đồng bảo hiểm con người, Sách chuyên khảo, Nxb.
- Trần Minh Hiệp, “Bất cập trong quy định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, Nghiên cứu Lập pháp, số 15 (415.
- bà H đã trả lời không tại câu hỏi số 54 và tại câu hỏi số 61 của Đơn yêu cầu bảo hiểm ngày 25/3/2009 là cố tình khai báo không trung thực và vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin.
- Do đó, thẩm phán cần phải xác định việc bà H đã không trả lời đúng với yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm có thể xem xét là vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin hay không.
- Để trả lời được câu hỏi này thì thẩm phán cần đối chiếu với quy định của pháp luật về nghĩa vụ cung cấp thông tin trong hợp đồng bảo hiểm.
- Tuy nhiên, pháp luật đến thời điểm xảy ra vụ án vẫn chưa có quy định nào mô tả về loại thông tin cần được kê khai mà chỉ dừng lại ở việc nêu ra nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm.
- Qua nhận định trên, có thể thấy, việc bà H không trả lời đúng theo yêu cầu tại câu hỏi số 54 và 61 của Đơn yêu cầu bảo hiểm là không đủ cơ sở để xác định bà H vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin cũng như không phải là hành vi lừa dối theo quy định tại khoản 2 Điều 19 và điểm d khoản 1 Điều 22 Luật kinh doanh bảo hiểm.
- Việc tòa án cho rằng “không có cơ sở xác định việc bà H đánh dấu vào ô không của mục 54 và 61 tại Đơn yêu cầu bảo hiểm làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc công ty C có xem xét để ký hợp đồng bảo hiểm với bà H hay không” tạo ra một đòi hỏi mới đối với thông tin được yêu cầu trong hợp đồng bảo hiểm.
- Trong bản án này, theo tòa án, phạm vi của nghĩa vụ cung cấp thông tin chỉ bao gồm những thông tin có ảnh hưởng trực tiếp đến quyết định của doanh nghiệp bảo hiểm trong việc lựa chọn có hay không giao kết một hợp đồng bảo hiểm.
- đồng với bên mua bảo hiểm cho dù người này khi giao kết hợp đồng đã khai bị đau dạ dày và mỡ máu tăng cao.
- Điều này cho thấy, “việc bên mua bảo hiểm không kê khai bệnh đau dạ dày và mỡ máu tăng cũng không ảnh hưởng nghiêm trọng đến quyết định của Công ty C trong việc đánh giá chấp nhận có hay không việc ký hợp đồng bảo hiểm” 39.
- Tóm lại, pháp luật chỉ quy định nghĩa vụ cung cấp thông tin theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm mà không quy định về phạm vi của nghĩa vụ này.
- Điều này dẫn đến việc thông tin được yêu cầu không phải là căn cứ quyết định để xác lập hợp đồng bảo hiểm và có thể doanh nghiệp bảo hiểm viện dẫn lý do không cung cấp các thông tin không là căn cứ quyết định để huỷ hợp đồng bảo hiểm và từ chối nghĩa vụ thanh toán khi sự kiện bảo hiểm xảy ra.
- Điều này đã tạo ra bất lợi cho bên mua bảo hiểm vốn dĩ đã là bên yếu thế trong hợp đồng theo mẫu.
- Bên mua bảo hiểm chỉ vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin khi không cung cấp thông tin được yêu cầu là căn cứ quyết định việc xác lập hợp đồng bảo hiểm.
- Đối với việc không kê khai các thông tin không là căn cứ quyết định thì bên mua bảo hiểm vẫn không vi phạm nghĩa vụ này.
- Án lệ, do đó, đã góp phần tạo vị thế bình đẳng cho bên yếu thế trong hợp đồng bảo hiểm..
- Tương tự pháp luật Việt Nam, pháp luật Pháp cũng quy định về nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm theo yêu cầu của doanh nghiệp bảo hiểm.
- Theo quy định này thì bên mua bảo hiểm chỉ cần trả lời những câu hỏi trong đơn yêu cầu bảo hiểm 40 , và doanh nghiệp bảo hiểm không thể viện dẫn rằng bên mua bảo hiểm đã cố ý che dấu thông tin đối với những vấn đề mà doanh nghiệp bảo hiểm không yêu cầu 41 .
- Liên quan đến việc kê khai tình trạng bệnh lý khi giao kết hợp đồng bảo hiểm, khi các câu hỏi trong đơn yêu cầu bảo hiểm đã rõ ràng và chính xác về tình trạng bệnh lý liên quan đến việc giải phẫu mạch, thì việc xác định rằng bên mua bảo hiểm đã kê khai không trung thực thể hiện qua lỗi cố ý và làm thay đổi các đánh giá về rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm 43 .
- Tóm lại, theo quy định của pháp luật Pháp, thì việc xác định bên mua bảo hiểm có vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin hay không phụ thuộc vào hai yếu tố, đó là lỗi cố ý kê khai không trung thực của bên mua bảo hiểm và lỗi này làm thay đổi các đánh giá về rủi ro của doanh nghiệp bảo hiểm..
- Nếu như án lệ số 22/2018/AL sử dụng cụm từ “thông tin được yêu cầu kê khai không là căn cứ quyết định việc các bên xác lập hợp đồng bảo hiểm” thì tòa án Pháp lại xác định thông qua yếu tố lỗi cố ý dẫn đến làm thay đổi các đánh giá rủi ro.
- Có thể thấy, mặc dù có sự khác nhau về câu từ sử dụng, nhưng suy cho cùng thì việc thông tin là căn cứ quyết định việc xác bên xác lập hợp đồng bảo hiểm phục vụ cho doanh nghiệp bảo hiểm nhằm đánh giá rủi ro khi giao kết hợp đồng bảo hiểm..
- Án lệ số 22/2018/AL một mặt khẳng định nguyên tắc giải thích hợp đồng có lợi cho bên gia nhập vào hợp đồng theo mẫu, cụ thể trong vụ án này là bên mua bảo hiểm, mặt khác bổ sung khiếm khuyết của pháp luật về phân loại tầm quan trọng của thông tin được yêu cầu trong hợp đồng bảo hiểm.
- Tuy nhiên, án lệ này mặc dù đã đề ra giải pháp hoàn thiện pháp luật, nhưng lại chưa đưa ra được định nghĩa thế nào là một yêu cầu không rõ ràng về thông tin kê khai cũng như chưa xác định được thông tin nào là căn cứ quyết định việc các bên xác lập hợp đồng bảo hiểm.
- Án lệ đồng thời cũng chưa đề ra được giải pháp xử lý đối với hành vi vi phạm nghĩa vụ cung cấp thông tin trong giai đoạn giao kết hợp đồng bảo hiểm, cụ thể là chưa giải quyết được mâu thuẫn giữa khoản 2 Điều 19 và điểm d khoản 1 Điều 22 của Luật kinh doanh bảo hiểm.
- Mặc dù còn có những thiếu sót nhất định, nhưng án lệ đã khẳng định tầm quan trọng của thông tin trong giao kết hợp đồng bảo hiểm cũng như gián tiếp đề ra yêu cầu về tính chính xác và rõ ràng của đơn yêu cầu bảo hiểm.
- Do đó, án lệ có thể được áp dụng cho các vụ án tương tự khi hợp đồng bảo hiểm, quy tắc bảo hiểm, đơn yêu cầu bảo hiểm có yêu cầu không rõ ràng về cung cấp thông tin.
- Bên cạnh đó, thông tin được yêu cầu trong vụ án xuất phát từ hợp đồng bảo hiểm nhân thọ, nhưng án lệ cũng có thể được áp dụng đối với các vụ án liên quan đến thông tin yêu cầu không rõ ràng từ hợp đồng bảo hiểm phi nhân thọ..
- 10 Đoàn Đức Lương, Lê Văn Vũ, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin khi giao kết hợp đồng bảo hiểm theo pháp luật Việt Nam”, Pháp luật và Thực tiễn, số 01/2018, tr.
- 11 Hoàng Minh Thái, Nguyễn Thị Tố Như, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm”, Luật học, số 7/2016, tr.
- 12 Louis Perdrix, Bộ luật bảo hiểm và tương trợ năm 2021, giải thích và bình luận, Nxb..
- 13 Nguyễn Thị Thủy, Pháp luật hợp đồng bảo hiểm con người, Sách chuyên khảo, Nxb..
- 14 Nguyễn Thị Thủy, Lê Thủy Tiên, “Nghĩa vụ cung cấp thông tin của bên mua bảo hiểm trong hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, Nghiên cúu Lập pháp, số 5 (405.
- 16 Trần Linh Huân, “Hoàn thiện quy định pháp luật về nội dung, hình thức hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, Nhà nước và Pháp luật, số 2/2021, tr.
- 17 Trần Minh Hiệp, “Bất cập trong quy định của pháp luật điều chỉnh hợp đồng bảo hiểm nhân thọ”, Nghiên cứu Lập pháp, số 15 (415

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt