« Home « Kết quả tìm kiếm

Dấu ấn văn hóa của người Nam bộ biểu hiện qua nhóm từ đánh giá sự vật


Tóm tắt Xem thử

- DẤU ẤN VĂN HÓA CỦA NGƯỜI NAM BỘ BIỂU HIỆN QUA NHÓM TỪ ĐÁNH GIÁ SỰ VẬT.
- Đánh giá sự vật, hiện tượng là một phần không thể thiếu của con người trong quá trình nhận thức về thế giới hiện thực.
- Trong quá trình đó, mỗi người khi đánh giá về một sự vật lại có sự khám phá ra các đặc trưng khác nhau và do đó sử dụng từ ngữ để đánh giá có sự khác nhau nhất định.
- Sự khác nhau này thể hiện ở chỗ cùng một sự vật nhưng chúng ta có rất nhiều từ cùng nằm trong một phạm trù rộng bao gồm nhiều phương diện, nhiều mức độ thể hiện sự đánh giá để lựa chọn và việc lựa chọn như thế nào còn phụ thuộc vào cách nhận thức của mỗi cá nhân..
- Humboldt: “Từ không phải là đại diện cho bản thân sự vật… mà là sự biểu hiện quan điểm riêng của chúng ta về sự vật.
- Cho nên, nghiên cứu nhóm từ ngữ chỉ đánh giá sự vật của con người đã trở thành một yêu cầu cần thiết trong quá trình nghiên cứu một ngôn ngữ cụ thể..
- Cùng chung một ngôn ngữ nhưng tùy theo từng tình huống, từng sự vật cụ thể mà mỗi vùng phương ngữ lại đánh giá bằng cách lựa chọn các phương tiện từ vựng và phương thức khác nhau.
- Phương ngữ Nam Bộ cũng vậy.
- Bài viết của chúng tôi đi vào tìm hiểu nhóm từ chỉ đánh giá sự vật của người Nam.
- Bộ (qua khảo sát thơ ca dân gian Nam Bộ (TCDGNB)) theo định hướng chỉ đề cập tới 4 tiểu nhóm từ, bao gồm: Nhóm từ đánh giá theo mức độ nhẹ, mang ý nghĩa giảm về kích thước.
- Nhóm từ đánh giá theo mức độ cao, mang ý nghĩa tăng về kích thước.
- Nhóm từ đánh giá mang ý nghĩa đánh giá tích cực, có thiện cảm.
- Nhóm từ đánh giá mang ý nghĩa đánh giá tiêu cực, không có thiện cảm.
- Đây là các tiểu nhóm từ gắn bó với đời sống văn hóa, cách thức tri nhận và cách đánh giá sự vật hết sức tinh tế với những sắc thái biểu cảm rất riêng của người Nam Bộ mà trong đó yếu tố chủ quan của con người về cảm nhận hiện thực được thể hiện rõ nét..
- Từ ngữ chỉ đánh giá sự vật trong thơ ca dân gian Nam Bộ.
- Nhóm từ đánh giá theo mức độ nhẹ, mang ý nghĩa giảm.
- Đánh giá theo mức độ nhẹ là cách đánh giá giảm nhẹ mức độ của sự vật xuống thấp hơn mức trung bình.
- Nghĩa của các từ láy này biểu thị tính chất thấp hơn với mức độ trung bình của các tính từ gốc..
- Trong TCDGNB, nhóm từ được đánh giá theo mức độ nhẹ, giảm về kích thước có số lượng gồm 31 từ với những biểu hiện về sắc thái nghĩa khá phong phú như: chín hườm, êm rìu, hân hấn, ốm ốm, lăng quằng, lăng líu, lẫn đẫn, le the, lịu địu, lỉnh bỉnh, lít.
- Do đó, sắc thái nghĩa được giảm nhẹ hơn mức độ bình thường.
- Trong TCDGNB, từ láy đánh giá theo mức độ nhẹ, giảm về kích thước chủ yếu xuất hiện ở loại thứ hai này (hân hấn, lăng líu, le the, lẫn đẫn.
- Trong nhóm từ này, có một số từ có ý nghĩa tương đồng với từ toàn dân, nhưng có sự phân biệt về sắc thái nghĩa hoặc sắc thái biểu cảm nhất định nào đó.
- Trong cách đánh giá của người Nam Bộ, từ lù mù lại có nghĩa khác.
- Tuy nhiên, trong TCDGNB, từ lẫn đẫn còn mang sắc thái nghĩa khác, chỉ về cơ thể của một người nào đó “không còn được khỏe mạnh, linh hoạt” [9.
- Trong văn hóa ứng xử của người Nam Bộ, hân hấn còn mang sắc thái nghĩa chỉ sự tươi tắn, dễ thương.
- Tương tự, từ lăng líu cũng mang sắc thái riêng biệt:.
- Như vậy, lăng líu trong phương ngữ Nam Bộ tương ứng với từ dan díu trong ngôn ngữ toàn dân..
- Tuy nhiên, sắc thái nghĩa của hai từ này khác nhau..
- Nếu dan díu trong ngôn ngữ toàn dân thường dùng để phê phán những người đã có gia đình mà còn có hệ yêu đương bên ngoài không chính đáng, thì lăng líu trong cách đánh giá của người Việt vùng Nam Bộ lại có sắc thái nghĩa nhẹ nhàng hơn, dùng để chỉ quan hệ tình cảm yêu thương không tốt của nam nữ hoặc chỉ sự quanh quẩn bên cạnh một người nào đó..
- Từ những ví dụ trên, có thể thấy được một nét đẹp trong tính cách cũng như văn hóa ứng xử của người Việt ở vùng đất Nam Bộ đó là trọng tình cảm..
- Do đó, khi đánh giá cụ thể về sự vật, đối tượng thì người dân nơi đây đánh giá ở mức độ thấp và nhẹ nhàng.
- Cho nên, có thể có những sự đánh giá không tốt về đối tượng thì đối tượng được đánh giá đó cũng không có cảm giác nặng nề, khó chịu..
- Nhóm từ đánh giá theo mức độ cao, mang ý nghĩa tăng.
- Trong công trình “Từ địa phương Nghệ Tĩnh, về một khía cạnh ngôn ngữ - văn hóa”, tác giả Hoàng Trọng Canh khi nghiên cứu về các tính từ chỉ mức độ cao đặc tính của sự vật, đã cho rằng: “Các tính từ như trắng, xanh trong tiếng Việt có thể kết hợp với nhiều yếu tố theo những phương thức khác nhau, có mặt trong các tổ hợp, dạng phổ biến như: 1.
- Các tổ hợp ở 1,2,3,4 đều diễn tả các sắc thái, các mức độ nghĩa khác nhau của cùng một đặc tính do tính từ biểu thị.
- Ở 1 - là phó từ chỉ mức độ, ở 2 - là yếu tố so sánh và phương thức so sánh, ở 3 - là phương thức láy và ở 4 - là yếu tố chỉ mức độ cao đi sau tính từ trong phương thức ghép.” [3.
- Tác giả cũng đã khẳng định, các tính từ chỉ mức độ cao trong phương ngữ Nghệ Tĩnh tồn tại theo dạng 4.
- Khảo sát các từ đánh giá theo mức độ cao, mang ý nghĩa tăng về kích thước trong TCDGNB, chúng tôi thấy những từ này cũng tồn tại chủ yếu theo dạng 4 như trên..
- Nhóm từ được đánh giá theo mức độ cao, mang ý nghĩa tăng về kích thước gồm có 44 từ với những sắc thái biểu hiện riêng biệt, như: chua lét, héo don, ướt mem, mỏng dánh, mốc thích, non èo, ốm o, rã bèn, rặc ròng, rũ liệt, tèm hem, tối hụ, tùm lum… Xét về mặt cấu tạo, nhóm từ này bao gồm cả từ ghép và từ láy.
- Qua đối chiếu từ ngữ Nam Bộ với các từ ngữ chỉ mức độ cao trong ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ Nghệ Tĩnh, chúng tôi thấy các từ ngữ trong ngôn ngữ toàn dân và phương ngữ Nghệ Tĩnh chủ yếu là các từ ghép..
- Đối với các từ ghép, đặc điểm của các từ này là nhờ có chứa yếu tố làm tăng mức độ nên tự bản thân chúng đã hàm chứa ý nghĩa tuyệt đối về đặc trưng tính chất.
- Nghĩa là tự bản thân chúng đã hàm chứa mức độ cao.
- Cho nên, chúng không có khả năng kết hợp với các phụ từ chỉ mức độ, không được đánh giá theo thang độ, như: cao nghệu, chua lét, héo don, héo xàu, ướt mem, mỏng dánh, mốc thích, non èo, rã bèn, rộng thình....
- Để tiện miêu tả, chúng tôi gọi tổ hợp này là AX, trong đó A là các động từ hoặc tính từ làm thành tố chính (có thể là yếu tố toàn dân hoặc yếu tố phương ngữ) và X làm thành tố phụ, là yếu tố làm tăng mức độ của A kèm theo sắc thái biểu cảm nhất định (Chúng tôi theo cách gọi của các tác giả như: Đỗ Hữu Châu, Nguyễn Tài Cẩn, Cao Xuân Hạo, Nguyễn Thiện Giáp, Hồ Lê, Hoàng Trọng Canh.
- Bởi lẽ, trong hoạt động giao tiếp bằng ngôn ngữ, yếu tố X biểu thị thuộc tính của đối tượng ở mức độ cực đại theo chiều nào đó để cường điệu hóa theo sự đánh giá chủ quan của người nói.
- Điều này có thể giúp chúng ta hiểu thêm phần nào những giá trị riêng biệt trong tư duy, cũng như trong cách sử dụng ngôn ngữ và văn hóa ứng xử của người dân Nam Bộ..
- Trong nhóm từ này, yếu tố X trong kết cấu AX có thể có nguồn gốc từ ngôn ngữ toàn dân.
- Ngược lại, yếu tố X cũng có thể có nguồn gốc từ phương ngữ Nam Bộ.
- Do đó, yếu tố xàu kết hợp với yếu tố héo để tạo ra một tổ hợp nhằm tăng mức độ của héo.
- Trong nhóm từ ghép này, chúng tôi ấn tượng mạnh với những từ có sử dụng yếu tố X chỉ mức độ cao đặc điểm tính chất sự vật mang thanh điệu vừa thuộc nhóm thanh trắc, vừa nằm ở âm vực cao được phân bố ở hình vị phụ nghĩa.
- ta có cảm giác như chính thanh điệu là yếu tố làm tăng thêm mức độ cao của đặc điểm, tính chất:.
- Bản thân những từ này bên cạnh ý nghĩa chung là chỉ mức độ cao của sự vật thì chúng còn hàm chứa sắc thái riêng.
- Còn mỏng dánh hiểu nghĩa thông thường là rất mỏng, sắc thái nghĩa riêng ở đây là bên cạnh nhấn mạnh độ mỏng hết mức của sự vật thì nó còn cho chúng ta thấy mức độ mong manh của tình cảm.
- Bên cạnh các từ ghép thể hiện mức độ cao, chúng ta còn thấy trong TCDGNB còn có một số từ láy mà khi đọc lên ý nghĩa của chúng cũng được xác định ở mức độ cao: ốm o, tèm hem, chơm bơm, rặc ròng, rũ rượi, tùm lum.
- Những từ mà thành tố A có nghĩa có thể làm nổi rõ đặc điểm, mức độ của sự vật ở mức cao nhất.
- Từ ốm o trong phương ngữ Nam Bộ có thể xác định được nghĩa của thành tố A.
- Tuy nhiên, từ ốm o trong cách đánh giá của người dân nơi đây không chỉ có nghĩa là gầy mà còn cho chúng ta thấy hình ảnh về một người nào đó có mức độ.
- Đối với trường hợp thành tố A không có nghĩa thì nhờ sự lặp lại về hình thức ngữ âm (nhóm từ này chủ yếu lặp lại ở phần vần) mà sự vật cũng được đánh giá ở mức độ cao.
- Sự đánh giá ở nhóm này chủ yếu thiên về tinh thần, tình cảm.
- Ở đây, từ chơm bơm còn thể hiện sự đánh giá không tốt về đối tượng, tức là nó mang hàm ý chê bai, mỉa mai một người nào đó có mái tóc vừa rối tung lên, vừa dơ bẩn do lâu ngày không gội.
- Điều này cho thấy người dân Nam Bộ thích sử dụng các từ ngữ vừa có sức gợi hình, vừa mang tính biểu cảm, thể hiện cách đánh giá chủ quan của mình về đối tượng..
- Như vậy, lớp từ đánh giá mức độ cao đặc tính sự vật đã thể hiện cách dùng từ có chọn lọc với những sắc thái riêng của người dân Nam Bộ trong TCDGNB.
- Đặc biệt, lớp từ láy đã thể hiện cách đánh giá cũng như đặc trưng văn hóa hết sức riêng nhưng đầy lí thú về lời ăn tiếng nói của người dân nơi đây..
- Nhóm từ mang ý nghĩa đánh giá tích cực, có thiện cảm.
- Trong các tình huống giao tiếp cụ thể bằng ngôn ngữ, sự nổi trội của mặt tích cực hay tiêu cực phụ thuộc vào nhiều yếu tố, trong đó chủ yếu phụ thuộc vào sự cảm nhận chủ quan hoặc thái độ, tình cảm của cá nhân người đánh giá đối với từng sự vật cụ thể.
- Sự đánh giá này được thể hiện trực tiếp bằng các từ ngữ mang sắc thái nghĩa, sắc thái tình cảm nhất định..
- Đánh giá tích cực là sự thể hiện cách nhìn nhận về sự vật, sự việc, vấn đề.
- Trong cách đánh giá này, xét về bản chất, có những đối tượng được đánh giá có thể không đẹp, không tốt nhưng trong con mắt chủ quan của người đánh giá cụ thể thì họ lại nhìn thấy ẩn sâu bên trong đối tượng là những giá trị tốt đẹp nên họ nhìn nhận, đánh giá bằng thái độ tích cực, có thiện cảm.
- Trong TCDGNB, những từ mang ý nghĩa đánh giá tích cực có số lượng không nhiều, chúng tôi tìm thấy 21 từ như: Bảnh, êm rìu, hân hấn, mạnh giỏi, thiệt thà, ốm ốm, xuê… Xét về cấu tạo, nhóm từ này bao gồm cả từ đơn, từ ghép và từ láy.
- Xét về ý nghĩa, chúng được chia thành hai loại: loại thứ nhất mang ý nghĩa mức độ nhẹ, giảm kích thước sự vật;.
- Với loại thứ nhất, như chúng tôi đã phân tích ở mục 2.1, khi mức độ đánh giá của những sự vật được giảm nhẹ thì kèm theo đó có thể mang ý nghĩa tích cực hoặc tiêu cực, nhưng chúng thường mang ý nghĩa tích cực, có thiện cảm.
- Một người nào đó bị đánh giá ốm thì kèm theo đó là hàm ý chê, không tốt.
- Nếu trong ngôn ngữ toàn dân, chúng ta hiểu.
- “hơi gầy” là cụm từ được sử dụng để đánh giá về hình dáng của một người nào đó có đặc điểm gầy hơn mức bình thường, thì ốm ốm cũng có nghĩa tương tự.
- Tuy nhiên, trong văn hóa ứng xử cũng như trong cách đánh giá của người Nam Bộ, từ ốm ốm lại mang ý nghĩa gợi ra hình ảnh về một người nào đó vừa có hình dáng hơi gầy, lại có nét dễ thương, đáng yêu.
- Tuy nhiên, trong cách đánh giá và văn hóa ứng xử của người Nam Bộ thì không phải người nào đẹp cũng được gọi là bảnh mà phải là người vừa có hình dáng đẹp, ăn mặc đẹp và lịch sự..
- Từ lang trong bài ca dao sau đánh giá về quan hệ của con người: Đêm nằm ôm gối thở than/Gối ơi gối hỡi bạn lang xa rồi [4.
- Trong ngôn ngữ toàn dân, từ lang thường mang ý nghĩa đánh giá không tốt về đối tượng.
- Trong phương ngữ Nam Bộ, từ lang mang sắc thái nghĩa ngược lại..
- Trong văn hóa giao tiếp của người Nam Bộ, từ lang được dùng để chỉ những người có quan hệ gần gũi và thân thiết với nhau..
- Nhóm từ mang ý nghĩa đánh giá tiêu cực, không có thiện cảm.
- Đánh giá tiêu cực là hành động bày tỏ sự đánh giá chủ quan của người nói về một đối tượng nào đó hoặc vấn đề nào đó không tốt, không đúng, không phù hợp với đối tượng hay vấn đề đánh giá đó bị hạ thấp, ít có thiện cảm.
- Trong ngôn ngữ toàn dân, khi đánh giá sự vật, chúng ta có thể có cách đánh giá khác nhau như: khi chỉ chiều cao của người hoặc sự vật, chúng ta có từ cao và thấp hoặc dài và ngắn.
- Về mặt ý nghĩa, chúng mang sắc thái biểu cảm khác nhau.
- Nếu cặp từ cao và thấp chỉ mang ý nghĩa định danh, thì cặp từ dài và ngắn trong dài lưng hay ngắn người lại mang ý nghĩa biểu cảm vì trong đó có thêm ý nghĩa đánh giá tiêu cực, chê bai..
- Trong TCDGNB, bên cạnh những từ ngữ đánh giá của ngôn ngữ toàn dân thì còn có những từ tiêu cực mang đặc điểm hết sức riêng trong cách đánh giá của người dân nơi đây.
- Xét về cấu tạo, nhóm từ này cũng bao gồm cả từ đơn, từ ghép và từ láy như lớp từ đánh giá tích cực.
- Xét về ý nghĩa, ngoài các từ đánh giá theo mức độ cao có ý nghĩa tiêu cực, còn có nhiều từ tự bản thân cũng có ý nghĩa đánh giá tiêu cực..
- Đối với những từ đánh giá theo mức độ, người đánh giá thường sử dụng các tính từ chỉ mức độ cao miêu tả tính chất, đặc điểm xấu của sự vật, đối tượng, đồng thời nhằm thể hiện thái độ chê bai của mình ở mức cao nhất.
- Như đã trình bày ở mục 2.2, đặc điểm của các từ này là bản thân chúng đã hàm chứa ý nghĩa chỉ mức độ cao quá mức bình thường về đặc trưng, tính chất nên giá trị tiêu cực cũng được đẩy lên cao..
- Đối với những từ không đánh giá theo mức độ mà tự bản thân có ý nghĩa đánh giá tiêu cực, chúng thường được dùng để đánh giá tính cách không hay của đối tượng và tự bản thân chúng đã hàm chứa sắc thái tình cảm không tốt, ít có thiện cảm.
- Trong cách đánh giá của người Nam Bộ, chim chạ được kết hợp với nhau thành một từ để chỉ những người có “quan hệ nam nữ thiếu lành mạnh” [9.
- Từ này thường đánh giá với sắc thái không tốt từ cả hai đối tượng trong quan hệ.
- Cũng chỉ về tính cách nhưng từ lang vân lại được dùng để chỉ một người nào đó có thói hay lang chạ, lăng nhăng không tốt, thường chỉ đánh giá về một đối tượng..
- Đúng như nhận xét của Trần Ngọc Thêm khi đánh giá về tính cách của người Việt ở Tây Nam Bộ: “Thương thì thương mút mùa, ghét thì ghét mãn kiếp” [8.
- Tóm lại, đánh giá sự vật là một điều tất yếu trong cuộc sống của con người.
- Trên đây, chúng tôi đã trình bày 4 tiểu nhóm từ đánh giá sự vật trong TCDGNB.
- Mỗi tiểu nhóm từ đều thể hiện sự đánh giá theo một cách riêng.
- Trần Thị Ngọc Lang (1995), Phương ngữ Nam Bộ , Nxb KHXH..
- Huỳnh Công Tín (2007), Từ điển từ ngữ Nam Bộ , Nxb KHXH.

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt