« Home « Kết quả tìm kiếm

Một số phương pháp dạy và học từ vựng tiếng Anh


Tóm tắt Xem thử

- Một số phương pháp dạy và học từ vựng tiếng Anh ĐHVH.
- Trong dạy và học tiếng Anh, từ vựng là một trong ba thành tố tạo thành hệ thống kiến thức ngônngữ và đóng vai trò là phương tiện, điều kiện hình thành và phát triển kỹ năng giao tiếp.
- Trong bất kỳ mộtngôn ngữ nào, vai trò của từ vựng cũng hết sức quan trọng.
- Có thể thấy một ngôn ngữ là một tập hợp củacác từ vựng.
- Không thể hiểu ngôn ngữ mà không hiểu biết từ vựng, hoặc qua các đơn vị từ vựng.
- Nhưngđiều đó không đồng nghĩa với việc chỉ hiểu các đơn vị từ vựng riêng lẻ, độc lập với nhau mà chỉ có thể nắmvững được ngôn ngữ thông qua mối quan hệ biện chứng giữa các đơn vị từ vựng.
- Như vậy việc học từ vựngvà rèn luyện kĩ năng sử dụng từ vựng là yếu tố hàng đầu trong việc truyền thụ và tiếp thu một ngôn ngữ nóichung và tiếng Anh nói riêng.
- Vì từ vựng là một đơn vị ngôn ngữ nên nó được thể hiện dưới hai hình thức:Lời nói và chữ viết.
- Muốn sử dụng được ngôn ngữ đó, tức là phải nắm vững hình thức biểu đạt của từ bằnglời nói và chữ viết.
- Song do có mối liên quan của từ vựng với các yếu tố khác trong ngôn ngữ (ngữ pháp,ngữ âm, ngữ điệu.
- hoặc trong tình huống giao tiếp.
- Nhiều nhà nghiên cứu cho rằng để xây nên một bứctường ngôn ngữ thì từ vựng là “những viên gạch” còn ngữ pháp và các cấu trúc câu là “những mạch vữa”để gắn kết những viên gạch tạo nên bức tường ngôn ngữ.
- Nếu không có một vốn từ vựng cần thiết thì ngườihọc không thể sử dụng các cấu trúc câu và các chức năng ngôn ngữ trong giao tiếp.
- Tuy nhiên, các quanđiểm dạy và học từ vựng trong tiếng Anh không ngừng biến đổi dẫn đến các phương pháp dạy và học từvựng cũng đã có nhiều đổi thay.
- Lịch sử dạy và học từ vựng tiếng Anh đã trải qua nhiều phương pháp khácnhau như: phương pháp Ngữ pháp–Dịch, phương pháp Nghe–Nhìn, phương pháp Nghe - Nói, phương phápGiao tiếp, v.v.
- Quan điểm thứ nhất theo trường phái Ngữ pháp-Dịch : Có tên gọi “ Grammar - Translation Method ”hay còn gọi là phương pháp Truyền thống được áp dụng mạnh mẽ ở Việt Nam vào những năm 1970 chođến tận những năm 1990.
- Phương pháp này coi mục đích chủ yếu của dạy và học tiếng Anh là cung cấp chongười học hệ thống từ vựng ngữ pháp tiếng Anh để phát triển kỹ năng đọc hiểu, học thuộc lòng từ vựng,dịch văn bản, đọc các tác phẩm văn học, viết luận ( composition ) và phân tích ngôn ngữ (học để nắm chắcquy tắc ngôn ngữ) chứ không tập trung vào kỹ năng giao tiếp.
- Để đọc hiểu các văn bản bằng tiếng Anh,người học được trang bị một lượng từ vựng và hệ thống ngữ pháp văn bản tương đối lớn dưới dạng bảngliệt kê kèm theo nghĩa bằng tiếng mẹ đẻ của người học.
- Phương pháp này yêu cầu học sinh học bất kì từmới nào miễn làm sao hiểu và dịch được nội dung bài đọc.
- Giáo viên khuyến khích người học sử dụng từđiển khi đọc với mục đích nhớ từ.
- Trên lớp, giáo viên đóng vai trò trung tâm.
- Việc dạy từ vựng chỉ tậptrung vào nghĩa của từ.
- Việc giảng giải quy tắc ngôn ngữ là cơ bản.
- Để kiểm tra sự thông hiểu về nội dung bài khóa (nộidung văn hóa, đất nước học nói chung) và các quy tắc ngôn ngữ, người học bắt buộc phải dịch các bài khóasang tiếng mẹ đẻ.
- Người học không được phép mắc lỗi ngôn ngữ, nếu có phải sửa ngay.Phương pháp Ngữ pháp – Dịch đã được sử dụng phổ biến ở nước ta trong một thời gian khá dài và nó đã cónhững ưu điểm không thể phủ nhận.
- Đó là:- Người học được rèn luyện rất kỹ về ngữ pháp và tiếp thu lượng từ vựng khá lớn.- Người học nắm được tương đối nhiều các cấu trúc câu cơ bản, thuộc lòng các đoạn văn hay hoặc bài khóamẫu.- Người học có thể đọc hiểu nhanh các văn bản.Tuy nhiên, với xu hướng phát triển của đất nước và thời đại, mục đích của người học tiếng Anh cũng cóthay đổi đòi hỏi phương pháp dạy và học tiếng Anh nói chung và từ vựng nói riêng cũng không thể mãi nhưcũ.
- Người ta dần dần nhận ra những hạn chế của phương pháp Ngữ pháp-Dịch là.
- Không giúp người học “giao tiếp” được.
- nghĩa là người thầygiảng giải, nói nhiều, học sinh thụ động ngồi nghe và ghi chép, không có ý kiến phản hồi hoặc không thamgia giao tiếp (nói) với thầy và bạn bè.- Hoạt động dạy học chỉ diễn ra một chiều – người học hoàn toàn bị động, không có cơ hội thực hành giaotiếp trong lớp.
- khả năng sáng tạo và đặc biệt kỹ năng nói của người học bị hạn chế nhiều.
- Phương pháp Nghe -Nói ( Audiolingual Method or Audio-Oral Method ) nhấn mạnh vào việc dạy kỹnăng nói và kỹ năng nghe trước kỹ năng đọc và kỹ năng viết.
- Khác với phương pháp Ngữ pháp – Dịch, phương pháp này đáp ứng đúng mục tiêu cần đạt của người học là hình thành và phát triển cả bốn kỹ năng,nhưng ưu tiên phát triển nói, nghe trước đọc và viết.
- Việc cung cấp kiến thức ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng,ngữ pháp) được thực hiện xen lồng trong quá trình dạy học.
- Phương pháp Nghe-Nói không cho phép việcdùng tiếng mẹ đẻ trong lớp.
- khuyến khích tối đa dùng tiếng Anh trong quá trình dạy học.
- Khi thực hiện,người ta nhấn mạnh việc phát triển hai kỹ năng nói và nghe là chủ yếu.
- Việc dạy học thông qua thực hànhcấu trúc câu ( structures ) và qua các bài tập ứng dụng, người học tự phát hiện và tìm hiểu những điểm giốngnhau (so với tiếng mẹ đẻ) về cấu trúc câu, cách phát ngôn và đưa ra các qui tắc ngôn ngữ.
- Yêu cầu ngườihọc bắt trước mẫu do người dạy cung cấp, ví dụ: các bài/mẩu đối thoại mẫu ( dialogues ) có chứa cấu trúccâu hoặc hiện tượng ngôn ngữ cần truyền đạt.
- Người học luyện tập mẫu đó thực chất là hình thành một thóiquen ngôn ngữ theo các hình thức như: hỏi và trả lời về bài đối thoại mẫu, thực hành thêm một số bài tậpcấu trúc (thay thế, bổ sung, chuyển đổi.
- Đôi khi người học tập trung vào phát triển kỹ năng nghe và nóithông qua các bài hội thoại có sử dụng từ và cấu trúc ngữ pháp trong giao tiếp hàng ngày.
- Giáo viên dùngcác đồ vật thật, hình vẽ, cử chỉ hay cách giải thích bằng chính tiếng Anh để giới thiệu từ mới.
- Phương phápnày cũng nhấn mạnh tới phát âm chính xác từ với hi vọng người học nói tiếng Anh như người bản ngữ.Việc dạy từ vựng trực tiếp không qua tiếng mẹ đẻ và chỉ chú trọng vào các tình huống giao tiếp cụ thể là cơ sở giúp người học mở rộng nhanh vốn từ.
- Nói tóm lại, phương pháp Nghe – Nói có những ưu điểm là:- Có hiệu quả đối với những người mới học, đặc biệt là học sinh tiểu học hoặc học sinh ở đầu cấp THCS.
- Người học cảm thấy phấn khởi và tự tin khi được nghe và tập bắt chước theo giáo viên, ví dụ: Người họclàm theo lệnh của giáo viên hoặc hát các bài hát tiếng Anh đơn giản.Tuy nhiên phương pháp này lại có những hạn chế như sau:- Đối với người học có trình độ ngoại ngữ cao thì rất dễ nhàm chán với phương pháp này nếu không có sựđiều chỉnh phương thức dạy học cần thiết.- Người học áp dụng những gì đã được lĩnh hội trong lớp học vào thực tiễn giao tiếp ngôn ngữ là khó.
- Người học không thể vận dụng các hình thức ngôn ngữ (các mẫu lời nói) được luyện tập trên lớp một cáchtự nhiên vì tuy học sinh có khả năng nghe hiểu, nhớ và bắt chước (nói theo) ngay tại chỗ trong lớp học,song các em cũng rất chóng quên và cảm thấy bị “tắc” khi gặp tình huống tương tự trong giao tiếp thực.Điều này nói lên rằng mặc dù người học có thể nhắc lại từ một cách hoàn hảo xong họ không hiểu rõ nghĩacủa từ và không có khả năng sử dụng từ trong những ngữ cảnh khác với điều đã được học.
- Phương pháp Giao tiếp Phương pháp Giao tiếp ( Communicative Approach ) được xem như phương pháp dạy học ngoại ngữ phổ biến nhất và hiệu quả nhất hiện nay.
- Hầu hết các giáo trình, sách giáo khoa phổ thông tiếng Anh trên thếgiới và ở Việt Nam hiện nay đều được biên soạn dựa theo quan điểm của phương pháp này.
- Qua đó, coimục tiêu cuối cùng của dạy học ngoại ngữ là phát triển kỹ năng giao tiếp/kỹ năng ngôn ngữ ( linguistic skills.
- năng lực giao tiếp ( communicative competence.
- Để giao tiếp được, phương pháp này đòi hỏi phảitính đến phương diện xã hội, văn hóa của ngôn ngữ, các điều kiện xã hội của quá trình sản sinh ngôn ngữ,và tính đến ngôn ngữ được dùng trong cuộc sống hàng ngày.
- Ngoài ra, phương pháp Giao tiếp còn chú ý tới .
- phương diện nghĩa của ngôn ngữ, hay nói một cách khác cần lưu ý tới ý định giao tiếp ( intention of communication.
- Khái niệm này về sau các nhà ngôn ngữ gọi là chức năng ngôn ngữ ( language function.
- Như vậy, theo Phương pháp Giao tiếp ngôn ngữ không chỉ là phương tiện diễn đạt tư duy mà còn là phương tiện giao tiếp.
- Mục đích cuối cùng của người học từ vựng không chỉ biết được cách đọc, cách viếtvà nghĩa của từ mà cần phải đạt được năng lực (khả năng) giao tiếp.
- tức là phát triển được tất cả 4 kỹ năngngôn ngữ (nghe, nói, đọc, viết) và sử dụng được từ vựng đó để giao tiếp.
- Vì vậy, các tài liệu dạy học hiệnđều hướng đến giúp người học có thể thực hiện được các chức năng ngôn ngữ khác nhau.
- Hơn nữa, đểgiao tiếp hiệu quả, người học cần phải sử dụng các từ vựng thích hợp với tình huống giao tiếp ( situations ),trong đó yêu cầu người tham gia giao tiếp phải thể hiện được ý định giao tiếp ( intention ) thông qua việcthực hiện các nhiệm vụ khác nhau ( tasks ).Với quan điểm lấy năng lực giao tiếp của người học làm trung tâm thì từ vựng được coi là một trong bathành tố làm thành công cụ hay phương tiện để hình thành và phát triển các kỹ năng ngôn ngữ.
- Nói cáchkhác là từ vựng được dạy lồng gộp với ngữ pháp và ngữ âm, thông qua và bằng luyện tập các kỹ năng giaotiếp và theo nhu cầu giao tiếp nghe, nói, đọc, viết nghĩa là quá trình giao tiếp cần những từ gì và số lượng là bao nhiêu thì dạy cho người học từng đó.Ở đây, chúng ta cần hiểu rõ một số khái niệm về từ vựng trong việc dạy và học tiếng Anh nói chung.
- Thứ nhất, mỗi mục từ thường có hai mặt: nghĩa của từ và cách sử dụng.
- Nghĩa của từ và cách chúng đượcdùng như thế nào là hai vấn đề khác nhau.Có nhiều trường hợp khi tra từ điển chúng ta có thể hiểu đượcnghĩa của từ, song không phải như vậy là đã biết cách sử dụng từ đó.
- Cách sử dụng của một từ phụ thuộcvào chức năng của từ trong câu, ngữ cảnh, thói quen của người sử dụng và các mối quan hệ của họ với môitrường văn hóa và xã hội.
- b/ Dùng ngôn ngữ đã học:- Định nghĩa, miêu tả;- Dùng từ đồng nghĩa, trái nghĩa;- Dựa vào các quy tắc hình thành từ, tạo từ;- Tạo tình huống;- Đoán nghĩa của từ trong ngữ cảnhc) Dịch sang tiếng mẹ đẻ.
- Việc lựachọn từ trước hết phụ thuộc vào tần suất từ đó được sử dụng trong giao tiếp, phụ thuộc vào khả năng từ đóthay thế các từ khác hay phụ thuộc vào nhu cầu và mục tiêu của người học.
- Người giáo viên phải biết lựachọn, xác định từ tích cực, chủ động trong quá trình để giảng dạy và cố gắng phát huy hết khả năng tự họchỏi của học sinh đối với những loại từ không tích cực.
- Bên cạnh đó giáo viên còn phải biết sắp xếp các từvựng sẽ dạy trong bài theo một trình tự hợp lý, hoặc tạo các lời dẫn gợi mở theo chủ điểm bài học.Khi lựa chọn từ để dạy, giáo viên cần xem xét các câu hỏi sau:a) Từ chủ động hay từ bị động? Mỗi phương pháp ra đời sau đều được coi như một cố gắng kế thừa những thành tựu và khắc phục nhượcđiểm của phương pháp ra đời trước nó.
- Nếu như với phương pháp dạy tiếng Anh truyền thống (phương pháp ngữ pháp - dịch) chú trọng nhiều vào việc học và rèn luyện thành thạo các cấu trúc ngữ pháp, thì vớicách tiếp cận giao tiếp tức dạy ngoại ngữ theo phương pháp thực hành giao tiếp việc hình thành ở ngườihọc năng lực sử dụng ngôn ngữ thành thạo lại là trọng tâm của quá trình dạy học.
- Khác với phương phápnghe nói (audio-lingual) với sự nhấn mạnh đến vai trò của luyện tập thuần thục các mẫu cấu trúc có sẵn,cách giảng dạy theo phương pháp thực hành giao tiếp nhấn mạnh đến khả năng tương tác của người họctrong bối cảnh giao tiếp, trong đó mỗi hành vi ngôn ngữ của người học sẽ thay đổi tùy thuộc vào những phản ứng và câu trả lời trước đó của ∗ những người cùng tham gia.Theo phương pháp giáo dục truyền thống, học ngoại ngữ thường được coi như một quá trình truyền thụkiến thức từ thầy sang trò thì với việc sử dụng phương pháp thực hành giao tiếp, việc dạy và học ngoại ngữgiờ đây được nhìn nhận như một quá trình khám phá, trong đó người học dần sử dụng ngôn ngữ phù hợpvới những mục đích giao tiếp cụ thể.
- Đây là mô hình dạy học lấy người học làm trung tâm, trong đó cả thầyvà trò đều cùng chia sẻ trách nhiệm dạy và học.
- Song song với việc nhấn mạnh vào mục tiêu phát triểnnăng lực giao tiếp ở người học, việc lựa chọn các hoạt động học tập sao cho có ích, phù hợp với nhu cầucủa người học và phải được đặt vào trong những bối cảnh thật mà người học có nhiều khả năng sẽ gặp phảitrong cuộc sống hàng ngày.
- Bài: Nguyễn Thanh Huyền - Khoa Ngôn ngữ và văn hóa Quốc tế

Xem thử không khả dụng, vui lòng xem tại trang nguồn
hoặc xem Tóm tắt