« Home « Kết quả tìm kiếm

Ảnh hưởng của bổ sung probiotic trong ương ấu trùng tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) theo công nghệ biofloc


Tóm tắt Xem thử

- DOI:10.22144/ctu.jvn.2020.093 ẢNH HƯỞNG CỦA BỔ SUNG PROBIOTIC TRONG ƯƠNG ẤU TRÙNG TÔM.
- Bổ sung probiotic, công nghệ biofloc, ương ấu trùng tôm chân trắng.
- Nghiên cứu được thực hiện nhằm xác định hàm lượng probiotic bổ sung thích hợp trong ương ấu trùng tôm chân trắng theo công nghệ biofloc lên tăng trưởng, tỉ lệ sống và năng suất của hậu ấu trùng tôm.
- Thí nghiệm gồm 4 nghiệm thức, nghiệm thức đối chứng không bổ sung probiotic, và 3 nghiệm thức còn lại được bổ sung probiotic với hàm lượng 1, 2 và 3 g/m 3 /ngày.
- Đường cát được sử dụng làm nguồn carbon bổ sung để tạo biofloc và duy trì tỷ lệ C/N = 15.
- Sau 20 ngày ương, các yếu tố môi trường ở các nghiệm thức đều nằm trong khoảng thích hợp cho ấu trùng tôm phát triển.
- Chiều dài trung bình của hậu ấu trùng tôm (PL-12) ở các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05), dao động từ 10,99 đến 11,54 mm.
- Tỷ lệ sống của PL-12 trung bình đạt từ 50,9 đến 57,3% và năng suất từ 76.407 đến 85.977 con/m 3 , trong đó nghiệm thức bổ sung probiotic 1 g/m 3 cao hơn nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại, khi gây sốc tôm PL-12 bằng formol 100 ppm và giảm 50% độ mặn thì tất cả các nghiệm thức đều có tỷ lệ tôm sống đạt 100%.
- Kết quả cho thấy bổ sung probiotic trong ương ấu trùng tôm thẻ chân trắng không ảnh hưởng đến tăng trưởng và tỷ lệ sống của hậu ấu trùng tôm..
- Ảnh hưởng của bổ sung probiotic trong ương ấu trùng tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei Boone, 1931) theo công nghệ biofloc.
- Tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei) được nuôi phổ biến ở Việt Nam, đặc biệt là ở Đồng bằng sông Cửu Long (ĐBSCL).
- Phạm Thành Nhân và ctv., 2016) có thời gian ương tôm ngắn dẫn đến hệ thống biofloc xử lý môi trường nước chưa tốt, vì vậy để tăng hiệu quả của hệ thống biofloc thì việc bổ sung probiotic là rất cần thiết.
- Hiện nay có nhiều nghiên cứu bổ sung probiotic trong hệ thống biofloc để tăng cường khả năng kháng bệnh của tôm thông qua việc ức chế vi khuẩn gây bệnh, nâng cao hiệu quả của hệ miễn dịch hoặc cải thiện chất lượng môi trường nước (Moriarty, 1998.
- Tuy nhiên các nghiên cứu bổ sung probiotic trong hệ thống biofloc để ương ấu trùng tôm thẻ chân trắng chưa được thực hiện.
- Sau đó ấu trùng được chuyển vào xô 15 lít và sục khí mạnh để tôm phân bố đều, tiến hành định lượng và bố trí ấu trùng vào bể ương theo từng nghiệm thức..
- 2.2 Tạo biofloc và bổ sung probiotic.
- Nguồn carbon cần bổ sung vào bể để tạo biofloc được tính dựa theo công thức của Avnimelech (2015).
- Trong quá trình ương, khi ấu trùng đến giai đoạn mysis 3 thì bắt đầu bổ sung nguồn carbon từ đường cát để duy trì tỉ lệ C:N là 15:1 (căn cứ vào C và N trong thức ăn nhân tạo sử dụng trong ngày)..
- Chu kỳ bổ sung carbon là 1 ngày/lần.
- với lượng probiotic tùy theo nghiệm thức và được ủ 48 giờ có sục khí mạnh, sau đó bổ sung trực tiếp vào bể ương..
- Thí nghiệm ương ấu trùng tôm thẻ chân trắng trong hệ thống biofloc gồm 4 nghiệm thức, mỗi nghiệm thức được lặp lại 3 lần và được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên.
- Nghiệm thức đối chứng không bổ sung probiotic, 3 nghiệm thức còn lại được bổ sung probiotic với hàm lượng 1, 2 và 3 g/m 3 /ngày..
- 2.4 Chăm sóc ấu trùng và hậu ấu trùng Theo Châu Tài Tảo và ctv.
- Mật độ vi khuẩn tổng được xác định bằng phương pháp pha loãng và đếm trên đĩa thạch Nutrient agar có bổ sung 1,5% NaCl (NA) (Huys, 2002).
- So sánh sự khác biệt giữa các trung bình nghiệm thức sử dụng ANOVA một nhân tố trong phần mềm SPSS 13.0 và phép thử DUNCAN ở mức ý nghĩa p<0,05..
- Trong thời gian thí nghiệm nhiệt độ trung bình buổi sáng và chiều ở các nghiệm thức chênh lệch không nhiều, nhiệt độ vào buổi sáng dao động từ 29,7 đến 30,1 o C và buổi chiều từ 30,5 đến 30,8 o C (Bảng 1).
- pH của các nghiệm thức trong thời gian thí nghiệm chênh lệch không lớn, buổi sáng dao động từ 8,04 đến 8,07 và buổi chiều từ 8,09 đến 8,10.
- Độ kiềm trung bình ở các nghiệm thức dao động từ 155,9 mgCaCO 3 /L đến 159,6 mgCaCO 3 /L (Bảng 1).
- Điều này cho thấy độ kiềm ở các nghiệm thức của thí nghiệm nằm trong khoảng thích hợp cho tôm phát triển tốt..
- Bảng 1: Các chỉ tiêu môi trường nước của các nghiệm thức.
- Chỉ tiêu Nghiệm thức bổ sung probiotic.
- Bảng 1 cho thấy hàm lượng TAN dao động từ 1,65 mg/L đến 2,12 mg/L và khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức (p>0,05).
- (2018), ương ấu trùng tôm sú bằng công nghệ biofloc thì hàm lượng TAN của các nghiệm thức dao động từ 1,06 đến 1,81 mg/L, nhưng hàm lượng NO 2 - dao động từ 0,40 đến 0,51 mg/L, tương đồng với nghiên cứu này là hàm lượng TAN cao nhưng NO 2 - thấp.
- Vậy hàm lượng TAN ở các nghiệm thức nhìn chung không ảnh hưởng bất lợi đến sự phát triển của ấu trùng tôm..
- Qua 20 ngày ương, hàm lượng NO 2 - trung bình ở các nghiệm thức rất thấp (0,04 đến 0,05 mg/L) (Bảng 1) và khác biệt không có ý nghĩa thống kê giữa các nghiệm thức (p>0,05).
- Vì vậy, hàm lượng nitrite ở các nghiệm thức nằm trong phạm vi cho phép để tôm phát triển tốt..
- Kết quả trên cho thấy bổ sung probiotic trong bể nuôi với các liều lượng khác nhau (1, 2 và 3 g/m 3 ) không ảnh hưởng đến chất lượng nước (TAN và NO 2.
- trong suốt thời gian ương, có thể là do bổ sung nguồn carbon vào bể ương kích thích sự phát triển của vi khuẩn dị dưỡng khi hình thành biofloc làm cho TAN và NO 2 - ở mức thấp nên khi bổ sung thêm.
- probiotic không có sự khác biệt giữa các nghiệm thức..
- Mật độ vi khuẩn tổng trung bình ở các nghiệm thức có sự chênh lệnh lớn.
- Sau 7 ngày ương, mật độ vi khuẩn tổng dao động từ 0,73*10 5 CFU/mL đến 1,13*10 5 CFU/mL, thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 2 g/m 3 /ngày khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức bổ sung probiotic 3 g/m 3 /ngày, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê so với 2 nghiệm thức còn lại.
- Sau 14 ngày ương, mật độ vi khuẩn tổng dao động từ CFU/mL đến CFU/mL, cao nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 2 g/m 3 /ngày và khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức đối chứng nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại.
- Đến ngày ương thứ 20, mật độ vi khuẩn tổng cao nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 3 g/m 3 /ngày khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với nghiệm thức bổ sung probiotic 2 g/m 3 /ngày nhưng khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với 2 nghiệm thức còn lại.
- (2019) khi bổ sung lượng probiotic vào bể ương càng nhiều thì mật độ của vi khuẩn tổng càng cao..
- Ngày thu mẫu Nghiệm thức bổ sung probiotic.
- Ở nghiệm thức bổ sung probiotic 1 g/m 3 /ngày có mật độ vi khuẩn tổng cao nhất là CFU/g và thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 2 g/m 3 /ngày là CFU/g.
- Giữa các nghiệm thức, mật độ vi khuẩn tổng trong tôm khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- Sau 7 ngày, mật độ vi khuẩn Vibrio cao nhất là 0,49*10 4 CFU/mL ở nghiệm thức bổ sung probiotic 3 g/m 3 /ngày và nhỏ nhất là 0,35*10 4 CFU/mL ở nghiệm thức bổ sung probiotic 2 g/m 3 /ngày, và khác biệt giữa các nghiệm thức không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Ngày thứ 14, trung bình mật độ vi khuẩn Vibrio ở các nghiệm thức dao động từ 6,60*10 4 CFU/mL đến CFU/mL (Bảng 3).
- Mật độ vi khuẩn Vibrio lớn nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 2 g/m 3 /ngày khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại..
- Đến 20 ngày ương mật độ vi khuẩn Vibrio cao nhất ở nghiệm thức đối chứng khác biệt có ý nghĩa thống.
- kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Có thể là do các nghiệm thức có bổ sung probiotic làm mật độ vi khuẩn có lợi cao nên kiềm hãm sự phát triển của vi khuẩn Vibrio dẫn đến các nghiệm thức có bổ sung probiotic có mật độ vi khuẩn Vibrio thấp hơn..
- (2019) khi ương giống tôm thẻ chân trắng bằng công nghệ biofloc có bổ sung probiotic thì các nghiệm thức có bố sung probiotic thì vi khuẩn Vibrio đều thấp hơn nghiệm thức đối chứng..
- Kết quả mật độ vi khuẩn Vibrio trong tôm khi kết thúc thí nghiệm dao động từ 2,12*10 4 CFU/g đến 3,60*10 4 CFU/g, thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 3 g/m 3 /ngày và cao nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 1 g/m 3 /ngày nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức.
- Bảng 3: Mật độ tổng Vibrio trung bình của các nghiệm thức (10 4 CFU/mL trong nước và 10 4 CFU/g trong tôm).
- 3.3 Các chỉ tiêu biofloc trong thí nghiệm Thể tích biofloc: kết quả thí nghiệm cho thấy thể tích floc ở các nghiệm thức dao động từ 0,23 ml/L đến 1,53 ml/L (giai đoạn PL-4 đến PL-12)..
- Trong đó, thể tích floc ở giai đoạn PL-4 cao nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 3 g/m 3 /ngày là 0,47 ml/L nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- floc ở giai đoạn PL-8 và PL-12 cao nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 3 g/m 3 /ngày khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại, thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng.
- Từ đó cho thấy khi bổ sung probiotic càng lớn thì thể tích floc càng cao là do trong thành phần hạt biofloc có vi khuẩn, nên khi bổ sung hàm lượng vi khuẩn nhiều thì sự hình thành biofloc tốt hơn, dẫn đến thể tích floc cao hơn..
- Bảng 4: Thể tích biofloc của các nghiệm thức (ml/L).
- Kích cỡ hạt biofloc: Chiều dài hạt biofloc trung bình ở giai đoạn PL-4 của các nghiệm thức lần lượt dao động từ 0,22 đến 0,29 mm, ở PL-8 dao động.
- (p>0,05) giữa các nghiệm thức theo từng giai đoạn..
- Hạt floc có hình dạng bất kỳ nhưng được xác định theo chiều dài và chiều rộng để so sánh giữa các nghiệm thức..
- Tương tự, chiều rộng hạt floc trung bình của các nghiệm thức lần lượt dao động từ 0,15 đến 0,20 mm ở giai đoạn PL-4, từ 0,17 đến 0,22 mm ở giai đoạn PL-8.
- Ở giai đoạn PL-12, chiều rộng hạt floc ở các nghiệm thức dao động trong khoảng 0,20 đến 0,25.
- mm, cao nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 2 g/m 3 /ngày và thấp nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 1 g/m 3 /ngày.
- Chiều rộng hạt floc khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức theo từng giai đoạn.
- Bảng 5: Kích thước hạt biofloc (mm) của các nghiệm thức.
- 3.4 Chiều dài ấu trùng và hậu ấu trùng tôm thẻ chân trắng.
- Chiều dài ấu trùng và hậu ấu trùng giữa các nghiệm thức được trình bày ở Bảng 6.
- Ở giai đoạn zoea-3, chiều dài tôm dao động từ 2,53 đến 2,54 mm và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức.
- Đến giai đoạn mysis- 3, chiều dài của tôm dao động từ 4,66 đến 4,70 mm, cao nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 3 g/m 3 /ngày, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Qua giai đoạn PL-4, chiều dài tôm dao động từ 6,08 đến 6,22 mm và giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05).
- Trong đó tôm có chiều dài lớn nhất ở nghiệm thức đối chứng, khác biệt có ý nghĩa thống kê (p<0,05) so với nghiệm thức bổ sung probiotic 2 g/m 3 /ngày nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống.
- kê (p>0,05) so với các nghiệm thức còn lại.
- Trong đó, tôm có chiều dài lớn nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 3 g/m 3 /ngày và nhỏ nhất ở nghiệm thức bổ sung probiotic 1 g/m 3 /ngày, nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức.
- Qua đó cho thấy ở nghiệm thức bổ sung probiotic 3 g/m 3 /ngày tôm luôn lớn hơn các nghiệm thức còn lại, có thể ở nghiệm thức này sự hình thành biofloc tốt hơn (thể tích biofloc lớn hơn các nghiệm thức khác).
- (2015b), ương ấu trùng tôm thẻ chân trắng ở các độ kiềm khác nhau cho thấy chiều dài của PL-12 dao động từ 9,9 đến 10,4 mm.
- Bảng 6: Chiều dài (mm) của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm chân trắng.
- Giai đoạn Nghiệm thức bổ sung probiotic.
- 3.5 Tỷ lệ sống và năng suất của PL-12 ở các nghiệm thức.
- Tỉ lệ sống của PL-12 ở nghiệm thức bổ sung probiotic 1 g/m 3 /ngày cao nhất (57,3.
- kế đến là nghiệm thức bổ sung probiotic 2 g/m 3 /ngày (56,3.
- thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng (50,9.
- và khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức (Bảng 7).
- (2018) và Huỳnh Thanh Tới và ctv (2019), khi bổ sung probiotic trong ương tôm thẻ chân trắng thì tỷ lệ sống của tôm khác biết không có ý nghĩa thống kê so với nghiệm thức đối chứng, giống như kết quả của nghiên cứu này..
- Năng suất của PL-12 cao nhất là ở nghiệm thức bổ sung probiotic 1 g/m 3 /ngày là 85.977 con/m 3 và thấp nhất ở nghiệm thức đối chứng là 76.407.
- con/m 3 , khác biệt về năng suất trung bình không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức..
- Từ đó cho thấy ở các nghiệm thức có bổ sung probiotic tỷ lệ sống và năng suất của tôm đều cao hơn nghiệm thức đối chứng là do khi bổ sung probiotic sự hình thành biofloc tốt hơn, dẫn đến tăng trưởng, tỷ lệ sống và năng suất của tôm cao hơn nhưng khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05) giữa các nghiệm thức.
- (2015b) ương ấu trùng tôm thẻ chân trắng ở các độ kiềm khác nhau, tỷ lệ sống của tôm cao nhất là 48,8±4%.
- Qua đó ta thấy tỷ lệ sống của PL-12 ở các nghiệm thức bổ sung probiotic cao hơn nghiệm thức đối chứng và nghiên cứu của Châu Tài Tảo và ctv..
- Sau khi gây sốc tôm PL-12 bằng formol và giảm 50% độ mặn thì tất cả các nghiệm thức đều có tỷ lệ tôm sống đạt 100%.
- Ở giai đoạn PL-12 tăng trưởng của tôm dao động từ 10,99 đến 11,54 mm, tỷ lệ sống dao động từ 50,9 đến 57,3%, và năng suất từ 76.407 đến 85.977 giữa các nghiệm thức khác biệt không có ý nghĩa thống kê (p>0,05)..
- Tôm PL-12 ở tất cả các nghiệm thức trong thí nghiệm đều đạt chất lượng tốt..
- Cần nghiên cứu thêm bổ sung các loại probiotic khác nhau trong ương ấu trùng tôm chân trắng theo công nghệ biofloc..
- Nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) bằng công nghệ biofloc từ nguồn carbohydrate rỉ đường bổ sung ở các giai đoạn khác nhau.
- Nghiên cứu ương ấu trùng tôm sú (Penaeus monodon) bằng công nghệ biofloc ở các mật độ khác nhau.
- Ảnh hưởng của độ kiềm lên tang trưởng và tỷ lệ sống của ấu trùng và hậu ấu trùng tôm chân trắng (Litopenaeus vannamei)..
- Ảnh hưởng liều lượng bổ sung chế phẩm sinh học lên Vibrio và tăng trưởng của tôm thẻ chân trắng (Litopenaeus vannamei) ương