« Home « Kết quả tìm kiếm

Bàn về một hướng nghiên cứu giảng dạy kỹ năng Nghe hiểu cho sinh viên Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp, Trường Đại học Ngoại ngữ, ĐHQGHN


Tóm tắt Xem thử

- Bàn về một hướng nghiên cứu giảng dạy kỹ năng Nghe hiểu cho sinh viên Khoa Ngôn ngữ và Văn hóa Pháp, .
- Việc dạy‐học ngoại ngữ thực chất là dạy‐học kiến thức và đặc biệt là các kỹ năng thực hành tiếng (Nghe, Nói, Đọc và Viết) để người học có thể nắm vững ngôn ngữ như một phương tiện giao tiếp nhằm để thoả mãn nhu cầu của bản thân, của xã hội và của nghề nghiệp.
- Trong bài báo này, tác giả muốn trao đổi ý kiến về việc dạy‐học kỹ năng Nghe nhằm góp phần nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy kỹ năng Nghe hiểu nói riêng và các môn thực hành tiếng nói chung ở Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Thực chất của việc dạy‐học một ngoại ngữ là dạy‐học các kiến thức ngôn ngữ và đặc biệt là các kĩ năng thực hành giao tiếp (nghe, nói, đọc, viết) để người học có thể sử dụng ngoại ngữ như một phương tiện giao tiếp nói hoặc viết theo nhu cầu cá nhân, xã hội‐nghề nghiệp.
- Các kĩ năng thực hành có mối liên hệ khăng khít, hỗ trợ, bổ sung lẫn nhau.
- Để thực hành tốt một ngoại ngữ, không thể chỉ chú trọng kĩ năng này mà coi nhẹ kĩ năng kia.
- Tuy nhiên, mỗi kĩ năng đều có những đặc điểm riêng biệt đòi hỏi phải tính đến và nghiên cứu kĩ lưỡng để có thể nâng cao hiệu quả chung của việc dạy‐học ngoại ngữ.
- rèn luyện cho họ kĩ năng thực hành nghe, nói trong thứ tiếng đó.
- Song thực trạng của việc dạy‐học các môn nghe, nói thế nào? Tác giả bài viết này mong muốn trao đổi cùng đồng nghiệp một số suy nghĩ về việc dạy‐học môn nghe hiểu nhằm góp phần nghiên cứu đổi mới phương pháp giảng dạy môn nghe hiểu nói riêng, các môn thực hành ngoại ngữ nói chung ở Trường Đại học Ngoại ngữ, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- môn Nghe hiểu vì kết quả đạt được thường rất thấp.
- Kĩ năng Nghe Nói Đọc Viết .
- Một số trở ngại trong quá trình nghe hiểu tiếng nước ngoài nói chung, tiếng Pháp nói riêng .
- Khi bắt đầu học ngoại ngữ, học sinh đã có hàng chục năm sử dụng tiếng mẹ đẻ.
- thói quen và kĩ năng sử dụng tiếng mẹ đẻ đã trở nên bền vững ảnh hưởng tiêu cực, gây trở ngại đến quá trình tiếp thu những tri thức mới, rèn luyện những kĩ năng thực hành mới (nghe, nói đọc viết) bằng tiếng nước ngoài.
- Trên bình diện nghe hiểu, học sinh gặp rất nhiều khó khăn trong việc khu biệt nhằm mã hoá các tín hiệu ngôn ngữ mới do thói quen tri nhận các âm, điệu của tiếng mẹ lấn át.
- Mặt khác, trong giai đoạn đầu học ngoại ngữ (thời gian học phổ thông) học sinh không .
- được chú trọng rèn luyện kĩ năng nghe, không có điều kiện nghe người bản ngữ (dù là thông qua băng cátsét, do đó khả năng nghe hiểu của các em thường là yếu.
- Đây là trở ngại cơ bản trong việc dạy/học kĩ năng nghe hiểu.
- Nhưng nếu đó là tiếng mẹ đẻ hoặc một ngoại ngữ thông thạo, ta hiểu ngay nghĩa của các tín hiệu ngôn ngữ phát ra.
- Vì sao vậy? Ta hãy xem xét vấn đề này ở các cấp độ khác nhau can thiệp vào quá trình nghe hiểu: .
- Về mặt ngữ âm: Học sinh phải làm quen với một hệ thống âm vị mới và luyện tập để nhận biết một số âm không có trong thứ tiếng mà mình biết.
- Đây chính là những khó khăn cho học sinh Việt Nam trong việc làm quen, nhận diện và luyện tập nghe trong giai đoạn mới học tiếng Pháp, đặc biệt là các nguyên âm giọng mũi và các âm /Y/ và /R/.
- Mặt khác, các yếu tố cận ngôn như trọng âm (accentuation), giai điệu (mélodie), ngữ điệu (intonation), nhóm nhịp điệu (groupe rythmique) đặc thù, đặc tính giọng nói của người phát ngôn cũng gây trở ngại đáng kể cho học sinh Việt Nam trong việc nghe hiểu tiếng Pháp không những ở giai đoạn cơ sở mà cả ở giai đoạn đề cao.
- Việc làm quen và tiếp thu các yếu tố cận ngôn đặc thù của tiếng Pháp rất khó đối với người Việt, đòi hỏi học sinh phải luyện tập nghe thường xuyên và nỗ lực, kiên trì của giáo viên.
- Sự khác biệt về số lượng âm tiết cấp độ từ gây trở ngại không nhỏ cho học sinh Việt Nam trong nghe hiểu tiếng Pháp.
- Tuy nhiên, thực tế dạy Nghe hiểu cho thấy một khi học sinh đã có một vốn từ vựng cần thiết tiếp thu được trong quá trình học ở giai đoạn cơ sở, những khó khăn về mặt từ vựng kể trên không còn là trở ngại đáng quan tâm nữa.
- Cái khó còn tồn tại và kéo dài ngay cả trong giai đoạn đề cao là nghe hiểu được các yếu tố văn hoá, văn minh hàm ẩn trong từ vựng.
- Trong nhiều trường hợp, học sinh hiểu hết các từ trong một phát ngôn nhưng không hiểu được nghĩa của phát ngôn đó.
- Đó là vì trong phát ngôn có chứa đựng các yếu tố văn hoá, văn minh mà học sinh chưa biết.
- như khi nghe một phát ngôn tiếng Pháp “Que savez‐ vous des trente années glorieuses?” Mặc dù biết hết các từ trong câu hỏi nhưng học sinh lại không hiểu nghĩa của câu hỏi.
- Đây chỉ là một trong rất nhiều ví dụ mà yếu tố văn hoá, văn minh can thiệp vào việc giải mã trong nghe hiểu.
- Một trở ngại nữa cần quan tâm về mặt từ vựng trong việc dạy nghe hiểu ở giai đoạn đề cao là các thuật ngữ, vì đằng sau cái vỏ âm thanh nghe được là cả một nội hàm chỉ các khái niệm đòi hỏi phải có những kiến thức chuyên ngành mới hiểu được.
- Có thể lấy một ví dụ: trong một phát ngôn thuộc lĩnh vực kinh tế hàng hoá có từ « familles.
- với vốn từ vựng thông thường khi nghe từ này học sinh không thể hiểu được nghĩa, vì đây là thuật ngữ chỉ một khái niệm chuyên ngành, nghĩa của nó là: các chủng loại sản phẩm hay mặt hàng trong một loại sản phẩm đồng chất.
- với vốn từ vựng thông thường, học sinh chỉ có thể hiểu là Chu trình kinh tế, nhưng chu trình kinh tế là gì? thì phải có kiến thức chuyên ngành kinh tế mới hiểu được: đó là một chu trình khép kín gồm 3 yếu tố có mối liên quan chế định nhau: sản xuất, nhu cầu và thu nhập.
- Về mặt ngữ pháp: đây là một trong những trở ngại cơ bản cho quá trình giải mã các tín hiệu ngôn ngữ.
- Sự khác biệt rất lớn về mặt ngữ pháp giữa tiếng Pháp và tiếng Việt như: cách biểu đạt thời thể, sự tương hợp thời thể, hình thái‐cú pháp, giống số của một loạt từ loại như quán từ, danh từ, đại từ, tính từ và vô số các qui tắc ngữ pháp khác thực sự là những thách thức đối với học sinh Việt Nam trong nghe hiểu tiếng Pháp.
- Tuy nhiên, trong quá trình học ngoại ngữ các kiến thức tiếp thu được về từ vựng, ngữ pháp, các kĩ năng thực hành khác sẽ hỗ trợ, bổ sung và nâng cao khả năng nghe hiểu, giải mã các .
- Trong giai đoạn đề cao, trở ngại lớn nhất về mặt ngữ pháp trong quá trình nghe hiểu ngôn bản là lôgic ngữ nghĩa, tình thái thông qua các cấu trúc ngữ pháp, thông qua hệ thống từ nối liên kết ngôn bản.
- Các yếu tố ngữ dụng liên quan đến việc xác định ý nghĩa xác thực của ngôn bản (thông qua hình thức ngôn ngữ của nó) chính là vấn đề khó nhất đặt ra cho giáo viên khi dạy nghe hiểu bởi lẽ chỉ khi đặt phát ngôn cụ thể vào một ngữ cảnh giao tiếp‐văn hoá của ngôn ngữ đích mới có thể xác định được ý nghĩa xác thực của ngôn bản, mới hiểu được ý đồ và thái độ của người nói, tình cảm của người nói trong giao tiếp.
- Xin trích dẫn một ví dụ minh hoạ của PGS TS Nguyễn Hoà trong bài viết Lực ngôn trung và các kiểu câu đăng trong Kỉ yếu Hội thảo về Ngữ dụng học 4/1999 tại Hà Nội, trang 262‐263: Nhà rất bẩn (con ạ)! phát ngôn này có thể hiểu thuần tuý là sự miêu tả một sự tình, song trong nhiều hoàn cảnh giao tiếp, thường được hiểu như là một sự quở trách hay là một yêu cầu cần dọn dẹp.
- Như vậy muốn hiểu được nghĩa xác thực của phát ngôn trên phải đặt phát ngôn vào ngữ cảnh giao tiếp‐văn hoá của ngôn ngữ nguồn mới hiểu được ý đồ của người nói.
- Cơ chế của nghe hiểu .
- Trong các kĩ năng thực hành, Nghe hiểu là một kĩ năng giao tiếp thụ động, là một quá trình mã hoá và giải mã, trong đó nghe thuộc phạm trù tiếp nhận, mã hoá các tín hiệu ngôn ngữ dưới dạng âm thanh phát ra với tư cách là yếu tố có nghĩa, hiểu thuộc phạm trù lí giải hay giải mã các tín hiệu ngôn ngữ đã được mã hoá.
- Có thể nói Nghe và hiểu là hai mặt .
- Có thể tóm tắt quá trình nghe hiểu một thông tin như sau: .
- Nghe gồm hai giai đoạn: cảm nhận và tri nhận các tín hiệu ngôn ngữ dưới dạng âm thanh.
- Một khi hội tụ đủ các kiến thức cần thiết cho việc giải mã thì nghĩa của các tín hiệu ngôn ngữ mới được xác lập.
- Do nghe hiểu là một kĩ năng thuộc dạng thụ động, nghe là yếu tố quyết định hiểu, các nhà giáo học pháp ngoại ngữ đã đưa ra một mô hình nghe tích cực nhằm khắc phục những hạn chế của tính thụ động của kĩ năng này, cải thiện .
- khả năng nghe của người học và nâng cao hiệu quả của việc dạy‐học kĩ năng nghe hiểu.
- Mô hình nghe tích cực có thể được chia thành ba giai đoạn .
- Giai đoạn 1 (GĐ1): neo, bám có nghĩa là muốn hiểu một phát ngôn trước hết ta phải nghe được một hoặc vài từ trong phát ngôn đó để làm chỗ dựa cho việc tìm hiểu và xác lập nghĩa của phát ngôn.
- Giai đoạn 2 (GĐ2): xác lập nghĩa của phát ngôn.
- Sau một hoặc nhiều lần nghe, học sinh nghe được một phần hoặc toàn bộ phát ngôn.
- Giai đoạn xác lập nghĩa của phát ngôn được tiến hành thông qua việc lập ra và lựa chọn các giả định về nghĩa.
- Giai đoạn 3: (GĐ3) ấn định nghĩa của phát ngôn.
- Việc ấn định ngh ĩa của phát ngôn diễn ra khi .
- học sinh tự cho là mình đã nghe được toàn bộ phát ngôn.
- Nếu thực tế là đúng như vậy thì học sinh đã hiể u đúng nghĩa của phát ngôn.
- Nếu ngược lại, học sinh chỉ hiể u được một phần của phát ngôn đó.
- Mặc dù còn một số điểm cần phải làm sáng tỏ thêm (trong khuôn khổ bài viết này chúng tôi không chủ trương xem xét lại mô hình lí thuyết này mà chỉ quan tâm đến khả năng ứng dụng của nó trong việc dạy/học môn Nghe hiểu), song đây là một mô hình lí thuyết thú vị, có cơ sở khoa học, mở ra khả năng ứng dụng cho việc dạy nghe hiểu tiếng nước ngoài nói chung, tiếng Pháp nói riêng.
- Mô hình nghe tích cực có thể được biểu diễn bằng sơ đồ sau: .
- GĐ2: Xác lập nghĩa Giả định nghĩa phát ngôn .
- Hiểu toàn bộ Hiểu một phát ngôn phát ngôn .
- Theo mô hình trên, trong giờ luyện nghe trên lớp, giáo viên phải chia lớp ra làm nhiều nhóm và cho học sinh nghe nhiều lần phát ngôn/ngôn đoạn/ngôn bản tuỳ theo mục đích luyện và trình độ người học.
- Ban đầu các từ nghe được rất ít ỏi, có thể do nhiều lẽ: .
- Song sau nhiều lần nghe đi nghe lại, học sinh sẽ tiến bộ hơn: số từ nghe được tăng dần lên.
- Đây chính là những điểm neo bám đầu tiên cho phép học sinh tiến dần lên trong quá trình khám phá nghĩa của phát ngôn.
- Việc xác lập nghĩa của phát ngôn đòi hỏi người học phải có một số tri thức và kĩ năng cần thiết về ngôn ngữ và giao tiếp của tiếng nước ngoài.
- Trong giai đoạn cơ sở, do học sinh chưa có đủ kiến thức về từ vựng, ngữ pháp, những hiểu biết về văn hoá, văn minh, ngữ dụng để xác lập nghĩa của phát ngôn/ngôn bản, giáo viên cần dự tính trước những khó khăn, trở ngại mà học sinh có thể gặp phải trong bài luyện nghe và giải thích ngay khi thấy cần thiết để tránh mất thời gian trên lớp.
- Giai đoạn 1 và 2 đòi hỏi rất nhiều thời gian để luyện tập, giáo viên cần cho học sinh nghe nhiều lần những phát ngôn hoặc ngôn đoạn khó, nên quan tâm chú ý đều đến các đối tượng có trình độ khác nhau để học sinh trung bình và yếu có điều kiện biểu thị sự cố gắng trong khi nghe.
- Điều khuyến cáo là đừng vì sốt ruột mà cho luôn các từ mà học sinh chưa nghe được vì kinh nghiệm cho thấy nếu học sinh phải động não, tự nghe ra được từ khó họ sẽ nhớ lâu và đó .
- Để có thể nghe tích cực, ngoài tri thức cần thiết về ngôn ngữ (ngữ âm, từ vựng, ngữ pháp), về văn hoá văn minh tiếp thu được trong quá trình học, học sinh phải có những hiểu biết nhất định về các chủ điểm đề cập trong các bài luyện nghe, về các loại hình ngôn bản.
- Lựa chọn những bài có chủ điểm được sử dụng trong chương trình giảng dạy các kĩ năng thực hành khác để cung cấp và bổ sung kiến thức chung phù hợp, .
- Lựa chọn và đa dạng hoá các loại hình ngôn bản phù hợp với mục tiêu cụ thể và trình độ học sinh.
- Trong khi dạy cần hướng dẫn học sinh tự rút ra những đặc điểm riêng biệt của các loại ngôn bản đó để có thể nhận diện khi nghe.
- Mặt khác, trong quá trình luyện nghe trên lớp cần cho học sinh làm quen với các loại hình tiểu mục khác nhau (điền khuyết, điền bảng, hoàn thành câu, trả lời câu hỏi, tóm tắt…) để học sinh có thể nắm bắt được và thực hiện tốt các yêu cầu trong thi/kiểm tra kĩ năng nghe hiểu.
- Điều quan trọng liên quan đến mô hình Nghe tích cực là thông qua các bài luyện tập trên lớp dần hình thành cho học sinh một phương pháp nghe để họ có thể chủ động tự tập luyện nghe ở nhà.
- Mỗi tiến bộ đạt được trong nghe hiểu, việc nâng cao kĩ năng nghe hiểu là kết quả của cả một quá trình rèn luyện khổ công không những chỉ ở trên lớp mà chủ yếu trong thời gian tự học.
- Học sinh cần nhận thức rõ rằng nếu chỉ trông chờ vào .
- các giờ dành cho kĩ năng này trong phân bố thời khoá biểu thì khó có thể đạt được mục tiêu đề ra của môn học.
- Độ dài ngôn bản phù hợp trong các bài luyện nghe trên lớp cũng là một yếu tố quan trọng trong việc ứng dụng mô hình Nghe tích cực nhằm duy trì hứng thú của học sinh.
- Đề xuất cách thức tiến hành một bài luyện kĩ năng Nghe hiểu .
- Để ứng dụng mô hình Nghe tích cực, chúng tôi thử đề xuất cách thức tiến hành một bài luyện nghe hiểu một cách khái quát như sau: .
- Các hoạt động trong bước này có thể là: .
- Quan sát một bức tranh, ảnh có cùng chủ điểm với bài nghe và yêu cầu học sinh phát biểu về chủ điểm của bức tranh, ảnh.
- Sau lần nghe thứ nhất, giáo viên yêu cầu học sinh cho biết những thông tin nghe được và giáo viên điền lên bảng tất cả những thông tin đó.
- Nếu học sinh chưa nghe được hoặc nghe được rất ít, thì cho các em nghe tiếp lần 2, lần 3… cho đến khi đã điền tương đối đủ các thông tin nghe được lên bảng.
- Bước 3: Nghe hiểu chi tiết nội dung bài.
- Giáo viên có thể đặt câu hỏi về các nội dung chính, thông tin phụ trong bài cho cả lớp trước mỗi lần nghe hiểu chi tiết.
- Để hiểu chi tiết nội dung bài nghe, học sinh cần phải xác định được những thông tin sau: .
- Nếu học sinh chưa nghe được những thông tin quan trọng, cần cho họ nghe thêm 1, 2 hoặc 3 lần.
- Các thông tin thu được trong bước nghe khái quát là cơ sở định hướng cho hiểu chi tiết, ngược lại bước nghe hiểu chi tiết cho phép hiểu được chính xác nội dung bài.
- Số lần cho nghe trong giờ luyện không phải là một con số cố định, nó hoàn toàn tuỳ thuộc vào khả năng và trình độ nghe của học sinh trong từng lớp cụ thể.
- Trước khi kết thúc bài luyện cần cho học sinh nghe lại lần cuối cùng .
- để mỗi học sinh xem xét lại những ý nào, những từ nào, những con số nào trước đó họ chưa nghe được.
- Để đổi mới phương pháp giảng dạy cần tiến hành một loạt các giải pháp đồng bộ trên cơ sở kết quả những nghiên cứu cơ bản về ngôn ngữ, về nội dung chương trình, về các kĩ năng thực hành ngoại ngữ, về phương pháp .
- Với tinh thần đó, tác giả bài viết mong muốn được trao đổi cùng quý đồng nghiệp những suy nghĩ cá nhân về giảng dạy kĩ năng Nghe hiểu với ước vọng được góp một viên đá nhỏ để xây dựng toà nhà đổi mới phương pháp giảng dạy mà nhà trường đang tiến hành.
- Cơ chế nghe hiểu.
- Sơ đồ cơ chế nghe hiểu ĐQV