« Home « Kết quả tìm kiếm

Các ảnh hưởng của chính sách khuyến khích tính chủ động của giáo viên đối với việc tạo động lực cho học sinh ở Thái Lan


Tóm tắt Xem thử

- Các ảnh hưởng của chính sách khuyến khích tính chủ động của giáo viên đối với việc tạo động lực cho học sinh ở Thái Lan Các ảnh hưởng của chính sách khuyến khích tính chủ động của giáo viên đối với việc tạo động lực cho học sinh ở Thái Lan Lý thuyết về tính tự quyết Amrita Kaur & gi¸o s­, tiÕn sÜ, Rosna Awang Hashim Trường nghệ thuật và khoa học, Đại học Utara Malaysia Tóm tắt Giáo viên đóng một vai trò quan trọng giúp khuyến khích và tạo động lực cho học sinh học tập.
- Họ cũng chịu trách nhiệm tạo cơ hội hỗ trợ động lực cho học sinh.
- Điều đặc biệt quan trọng là giáo viên cần phải biết những gì có thể tạo động lực cho học sinh (Reeve, Bolt & Cai, 1999).
- Một số nghiên cứu về lý thuyết về tính tự quyết cho thấy tăng quyền tự chủ cho giáo viên có thể đẩy mạnh động lực cho học sinh, hỗ trợ quá trình học tập và nâng cao kết quả học tập.
- họ đã đặt ra một số câu hỏi về áp dụng tổng hợp việc khuyến khích tính tự chủ của giáo viên trong hoàn cảnh các lớp học ở Châu Á.
- Là các giáo viên châu Á, liệu chúng ta có nên hay không nên dựa vào phong cách khuyến khích quyền tự chủ của giáo viên? Nghiên cứu này cố gắng thử nghiệm mối liên hệ giữa việc khuyến khích khả năng tự chủ của giáo viên đối với động cơ thúc đẩy học sinh Thái Lan trong bối cảnh một lớp học tự nhiên và trung thực.
- Nghiên cứu cũng nhằm mục đích xem xét ảnh hưởng của việc khuyến khích quyền tự chủ của giáo viên đối với mối quan hệ sinh viên – giáo viên trong bối cảnh các nước phương Đông.
- Tất cả 120 học sinh lớp 6 từ một trường song ngữ của chính phủ Thái sẽ tham gia thiết kế thử nghiệm.
- Học sinh nhóm thử nghiệm sẽ nhận được chỉ thị theo cách khuyến khích quyền tự chủ trong thời gian 6 tuần.
- Câu trả lời của học sinh trước và sau thử nghiệm sẽ được thu lại qua sử dụng b¶ng kh¸m ph¸ dữ liệu động lực nội tại (IMI) (Ryan, 1982) và bản câu hỏi tự sắp xếp (SRQ) (Ryan and Connell (1989).
- Giới thiệu Chúng ta hiểu rằng thúc đẩy động cơ đóng vai trò then chốt trong việc quyết định trường nào là trường tốt nhất cho học sinh.
- Vì vậy, điều quan trọng là các giáo viên hoặc trợ giảng phải hiểu được cách tạo một môi trường có tính dẫn dắt và cung cấp cơ hội phù hợp để đẩy mạnh động cơ học tập của học sinh.
- Khái niệm quan trọng của SDT nhấn mạnh vào hành vi hay hành động mang tính tự chủ hoặc ý chí có động cơ nội tại và tự quyết.
- Trong bối cảnh tương tự, các phương pháp dạy học như học chủ động, học trên cơ sở hợp tác, học trên cơ sở xây dựng và học lấy học sinh làm trung tâm cũng nêu bật tầm quan trọng của quyền tự chủ và ý chí của học sinh như một phương pháp sư phạm cần áp dụng (Bonwell & Eison, 1991.
- Liên quan tới vấn đề này, chúng ta biết rằng một trong những điểm yếu nổi bật của nền giáo dục Thái Lan là thiếu sự tham gia của học sinh vào quá trình dạy và học.
- Mục tiêu của bài viết này nhằm nêu bật sự cần thiết phải xây dựng khả năng tự chủ và tầm quan trọng của nó trong trường học ở Thái Lan trong bối cảnh so sánh giữa các nền văn hoá nhằm đánh giá và quyết định môi trường khuyến khích động lực phù hợp cho các lớp học ở Thái Lan.
- Nền giáo dục như vậy có ảnh hưởng lớn tới phong cách và động lực học tập của học sinh.
- Các học sinh Thái Lan được dạy phải coi thầy giáo gần như thần phật.
- Nền văn hóa Thái Lan và các truyền thống của nền văn hóa này rõ ràng đã ấn định thái độ kính trọng, lịch sự nhưng độc lập của học sinh đối với giáo viên và việc học tập.
- Tôi nghĩ đó là văn hóa của họ.” Những giả định như vậy khiến cho các giáo viên trong nước và nước ngoài so sánh học sinh Thái với học sinh phương Tây.
- Nguyễn (2005) ghi nhớ phong cách học phổ biến của các học sinh Thái Lan là im lặng.
- Bà cũng nhận xét học sinh Thái Lan thích các bài học có cấu trúc cụ thể hơn.
- các giờ thảo luận và đặt câu hỏi không được khuyến khích trong giảng dạy vì khác với học sinh phương Tây, học sinh Thái cảm thấy không tiện khi nêu ra những ý kiến không được tôn trọng.
- Thực tế như vậy chỉ nuôi dưỡng được tính tuân thủ của học sinh chứ không khuyến khích họ suy nghĩ độc lập.
- Một loạt các nghiên cứu do văn phòng của Ủy Ban Giáo Dục Quốc Gia thực hiện cũng nhận thấy thực tế các lớp học ở Thái Lan rất tĩnh và thiếu sự tham gia của học sinh vào quá trình học, kết quả là tính cạnh tranh về hàn lâm của học sinh Thái trong khu vực bị hạ thấp (Fry, 2002.
- Cuối cùng, việc phân tích hệ thống giáo dục ở Thái Lan đã dẫn đến những quan ngại về hệ thống giáo dục hiện tại, vì hệ thống giáo dục hiện tại không hỗ trợ phát triển cá nhân học sinh thành những người học tập độc lập và sáng tạo (Văn phòng Ủy Ban Giáo Dục Quốc Gia).
- Vì vậy, trong cuộc cải cách giáo dục hiện nay, một trong những mục tiêu của việc lập kế hoạch chương trình giáo dục Thái Lan là khuyến khích học sinh trở thành những người độc lập và thực hiện chiến lược khuyến khích phương pháp học độc lập (Povatong,1999).
- Hơn nữa, triết lý của Đạo Phật về giáo dục đòi hỏi một nền giáo dục và phương pháp học trên cơ sở yêu cầu thông tin, dạy học sinh về quyền tự do và đào tạo những con người biết tự trọng, có khả năng tin vào tiềm năng và sức mạnh hợp lý của bản thân (Wisadavet, 2003).
- Mục tiêu của nghiên cứu này Phần lý luận trên đây cho thấy Thái Lan là một hình mẫu lý tưởng về một xã hội tập thể, trong đó thiếu các chiến lược học tập chủ động và thiếu sự tham gia của học sinh vào quá trình học tập.
- Một trong những mục tiêu của chính sách cải cách giáo dục là phổ biến chiến lược học tập lấy học sinh làm trung tâm trong nội bộ học sinh.
- Hơn nữa, cũng không có nhiều nghiên cứu về việc thực hiện chiến lược giảng dạy lấy học sinh làm trung tâm trong các lớp học ở Thái Lan trong khuôn khổ những tranh luận về giao lưu văn hóa.
- Vì vậy, bài nghiên cứu này nhằm kiểm tra những ảnh hưởng của chính sách khuyến khích tính tự chủ của giáo viên đối với việc tạo động lực cho học sinh Thái Lan từ quan điểm văn hóa..
- Điều này lại giải thích về chất lượng của động lực trên cơ sở tính liên tục của các động lực có tính tự chủ và được kiểm soát.
- Nếu tự bản thân học sinh muốn tham gia vào quá trình học tập, hành vi học tập của em đó sẽ mang tính tự quyết hoặc có động cơ nội tại (ví dụ, động cơ tự chủ).
- Reeve và các cộng sự đã có những đóng góp đáng kể cho việc truyền bá các tài liệu về khuyến khích tính tự chủ trong giáo dục.
- Họ định nghĩa việc khuyến khích tính tự chủ của giáo viên như như một phong cách giao tiếp, thể hiện sự khác nhau do mỗi cá nhân có định hướng tính cách khác nhau.
- Khuyến khích tính tự chủ của giáo viên là một hành vi mang tính giữa cá nhân với cá nhân thông qua một môi trường lớp học hiệu quả và nhờ các nguồn động cơ nội tại của sinh viên.
- Hình 1: Khuôn khổ biện chứng giữa các nguồn động lực từ bên trong của học sinh và điều kiện lớp học ( Reeve, Deci & Ryan, 2004)..
- Mô hình trên giải thích bất kỳ môi trường nào khuyến khích tính tự chủ đều chủ động tương tác với nguồn động lực nội tại bên trong của học sinh.
- Nói cách khác, môi trường lớp học và cách khuyến khích học sinh của giáo viên có thể vừa khuyến khích một kết quả học tập tối ưu, vừa cản trở quá trình học tập.
- Chúng ta hãy bước ra ngoài lý thuyết về tính tự quyết một chút, trên c¬ sở khái niệm về phương pháp học chủ động vì triết lý về sự tham gia của sinh viên cũng nêu rõ sự liên quan của việc hỗ trợ khả năng tự chủ của giáo viến đối với quá trình học tập và phát triển chính thể luận của sinh viên.
- Thuật ngữ “học tập chủ động” có cùng nguyên tắc cơ bản với các hình thức giảng dạy khác như học trên cơ sở hợp tác, học trên cơ sở cộng tác và học lấy học sinh làm trung tâm.
- Các yếu tố chính của chiến lược nêu trên tập trung vào việc tự quyết định và sự tham gia của học sinh vào quá trình học (Gibbs, 1995.
- Quyền tự chủ của học sinh chủ yếu là tự kiểm soát và tự chủ trong hành vi của họ.
- trên cơ sở đó học sinh có thể tự chịu trách nhiệm về việc học tập của mình và có thể suy nghĩ độc lập và quan trọng là có thể tự quyết định (Little, 1991).
- Duân (2005) tập trung vào phương pháp giảng dạy và môi trường lớp học như một lĩnh vực chính thúc đẩy khả năng chủ động của học sinh.
- Barrett, 1990) thử nghiệm cách giảng dạy theo hình thức chỉ dẫn như một phương tiện khuyến khích khả năng chủ động hoặc hỗ trợ có kiểm soát nhằm đẩy mạnh tính chủ động của học sinh như sau: thử nghiệm phương pháp giảng dạy theo hình thức chỉ dẫn hoặc kiểm soát giúp khuyến khích khả năng chủ động của học sinh như sau: Cho các em lựa chọn, cơ hội và thời gian: Mời học sinh cho ý kiến như “bạn muốn họ làm gì” hoặc “họ muốn làm như thế nào.
- Đánh giá ý kiến của học sinh: Cho phép học sinh đóng góp cho ý kiến về các suy nghĩ trong giờ học và thảo luận, có khả năng phản hồi những đề xuất của học sinh và công nhận quan điểm cũng như kinh nghiệm của các em (Reeve & Jang, 2006), tạo sự hoà hợp trong giao tiếp với học sinh, lắng nghe và công nhận những tình cảm tiêu cực từ học sinh (Reeve, 2006)..
- Tạo cơ sở hợp lý: Hãy khuyến khích học sinh tham gia các hoạt động không thú vị và giúp các em tự hình thành một ý thức tốt hơn để có thể tự quyết định đối với các giá trị liên quan tới nhà trường, tạo cơ sở hợp lý cho việc thực hiện một hành động với một ngôn ngữ không được kiểm soát chứ không nên áp đặt nhiệm vụ lên học sinh mà không có cơ sở hợp lý (Reeve et al., 2002.
- Hãy khen ngợi học sinh như một hình thức phản hồi thông tin: Các nghiên cứu khẳng định rằng phần thưởng vật chất và dựa trên cơ sở nhiệm vụ được giao được coi là một yếu tố làm hỏng khả năng tự chủ (Deci & Ryan, 1987).
- Theo khái niệm về điều kiện có thể lượng hoá được của Skinner (1953), hành vi của học sinh dần dần bị phụ thuộc vào các phần thưởng vật chất như vậy.
- các phần thưởng này được trao với hy vọng tạo động lực cho học sinh.
- Nhưng học sinh sẽ không thực hiện hành vi mong muốn khi không còn trao thưởng nữa.
- Như vậy, khen ngợi như một hình thức thưởng bằng thông tin để khẳng định tiến bộ của học sinh có thể là một hành vi khuyến khích tính chủ động của học sinh (Reeve & Jang, 2006).
- Đẩy mạnh tính tự chủ của các em giúp các em đưa ra những quyết định quan trọng và nắm bắt được kỹ năng học tập từ cuộc sống (Duan, 2005).
- b) Cố gắng cao hơn: Khuyến khích tính tự chủ của giáo viên trong lớp giúp sinh viên duy trì được niềm tin vào khả năng của chính mình, điều này tạo động lực cho phép họ duy trì được nỗ lực cần thiết cho các nhiệm vụ học tập.
- c) Kết quả học tập của học sinh : Thiếu TAS, khả năng tự quyết của học sinh sẽ giảm và hậu quả sẽ là đến kết quả học tập của các em (Boggiano, Flink, Shields, Seelbach.
- e) Quan tâm và niềm vui: TAS có thể tạo cơ hội và tình huống cho học sinh khi họ tìm được những nội dung liên quan tới những gì mà họ quan tâm và họ sẽ cảm thấy quan tâm và thích thú hơn trong hoạt động (Reeve et al., 2002).
- Một số nghiên cứu cũng khẳng định những yếu tố bất lợi của việc kiểm soát môi trường đối với động lực nội tại của học sinh (Deci, Koestner & Ryan, 2001.
- g) Tính chủ quan cao hơn: Khuyến khích tính tự chủ của giáo viên là một yếu tố quan trọng giúp học sinh tiếp thu các giá trị hàn l©m bằng cách tạo cơ hội thách thức, thú vị và có cơ sở hợp lý đằng sau lựa chọn của mình (Assor, et al., 2002.
- i) Cam kết cao hơn: Cách tạo động lực của giáo viên có ảnh hưởng rất lớn đến cam kết của học sinh.
- TAS là một công cụ dự báo học sinh có thể tham gia vào các tình huống trong học tập với mức cam kết cao hơn.
- k) Giảm bớt áp lực và sự căng thẳng: Khi học sinh cảm nhận giáo viên có hướng khuyến khích tính chủ động của mình nhiều hơn, các em sẽ cảm thấy bớt áp lực và căng thẳng trong học (Black & Deci 2000).
- Những bằng chứng nghiên cứu nên trên cho chúng ta thấy việc khuyến khích tính tự chủ trong lớp học có thể có kết quả có lợi cho việc học tập cũng như tình trạng sức khoẻ của học sinh..
- Iyenger và Lepper (1999) đã kiểm tra những yếu tố so sánh giữa các nền văn hoá có thể ảnh hưởng tới thái độ của con người đối với tính tự chủ.
- Họ đã thử nghiệm sở thích của sinh viên khi chọn mẫu học sinh của Mỹ và Nhật Bản và thấy rằng tập hợp mẫu của Mỹ được lựa chọn nhiều hơn tập hợp mẫu của Nhật Bản là 50%.
- Trong các thử nghiệm khác do Iyenger và Lepper (1999) thực hiện về các tập hợp mẫu của Châu Âu và Châu Á, tập hợp mẫu Âu Mỹ được ưa thích hơn và thu hút được nhiều học sinh hơn vào quá trình thực hiện nhiệm vụ vì nó tạo ra một thách thức trong điều kiện có nhiều lựa chọn, trong khi đó tập hợp mẫu Á Mỹ lại cho kết quả tốt hơn trong điều kiện không có lựa chọn.
- Để kiểm tra mối quan hệ giữa việc cho học sinh quyền lựa chọn và động lực nội tại, Iyenger và Lepper (1999) tiếp tục nghiên cứu các cá nhân từ các nền văn hoá khác nhau.
- Kết quả nghiên cứu này được coi là một kết luận cho rằng tính tự chủ hay độc lập chỉ có lợi cho những người từ các nền văn hoá mang tính cá nhân.
- Tóm tắt và giả thiết Từ bài viết trên đây có thể giải thích rằng tầm quan trọng mang tính chức năng của việc xây dựng tính tự chủ giữa các học sinh phương Đông vẫn là một vấn đề gây tranh cãi, đặc biệt là với các học sinh Thái Lan, nơi mà triết lý văn hoá khuyến khích cách học tập kiểu phụ thuộc, nhưng Cuộc Cải Cách Giáo Dục Quốc Gia đã khuyến khích phương pháp học tập độc lập.
- Vì vậy, nghiên cứu gần đây nhằm kiểm tra vai trò của TAS đối với việc t¹o động lực cho học sinh Thái Lan trong môi trường lớp học tự nhiên, bằng cách sử dụng mẫu thiết kế bán thử nghiệm.
- Chúng tôi thấy TAS không có ảnh hưởng đối với việc tạo động lực và kỹ năng điều chỉnh của học sinh.
- Kết quả thu được từ nghiên cứu hiện nay sẽ có ảnh hưởng mang tính thực tiễn đối với các chuyên gia giáo dục và giáo viên Thái Lan giúp họ quyết định chiến lược tạo động lực cho học sinh và hình thành một môi trường học tập.
- Kiểm soát trực tiếp hành vi của giáo viên là chỉ số dự báo động lực của học sinh nam và nữ còn kém: Vai trò của sự giận dữ và lo lắng.
- Sử dụng các kỹ thuật nhằm tăng cường khả năng tự quyết của học sinh: Ảnh hưởng đối với kỹ năng giải quyết phân tích vấn đề của học sinh.
- .Động lực và tình cảm .
- Van Etten (Eds.) về ảnh hưởng mang tính văn hóa xã hội đối với việc tạo động lực và quá trình học tập của học sinh (pp.119–137).
- Khuyến khích quyền tự chủ của giáo viên và phụ huynh học sinh ở Nga và thanh thiếu niên ở Mỹ: Những ảnh hưởng chung đối với tình trạng sức khỏe và động lực tốt trong học tập.
- Tự chủ khác với chủ nghĩa cá nhân và tính độc lập: Lý thuyết về tính tự quyết trong quá trình quốc tế hóa xu hướng và tình trạng văn hóa.
- (1987).Khuyến khích tính tự chủ và kiểm soát hành vi.
- Có thể đẩy mạnh tính chủ động của học sinh trong việc dạy và học tiếng Anh như thế nào.
- Barrett, M.(1990).Kiểm soát chiến lược giảng dạy: Giảm khả năng tực quyết và kết quả học tập của học sinh.
- Đánh giá các khóa học lấy học sinh làm trung tâm.
- Tạp chí tâm lý giáo dục .
- Về sự phù hợp của tính tự chủ và sự gần gũi.
- Kiểm tra khả năng tự chủ trong các sinh viên Hàn Quốc.
- Khả năng tự chủ của học sinh: Định nghĩa, các vấn đề [M].
- Điều gì tạo động lực cho hành động và tình cảm của trẻ em? Những ảnh hưởng cảu kiểm soát có nhận thức và tính tự chủ trong môi trường học.
- Giáo viên nói gì và làm gì để khuyến khích khả năng tự chủ của học sinh trong quá trình học tập.
- tạp chí Tâm lý Giáo dục .
- Tạo cơ sở đẩy mạnh phương pháp khuyến khích tính tự chủ nhằm tạo động cơ cho người khác trong những hoạt động không thú vị.
- Động lực và tình cảm .
- Khuyến khích tính tự chủ như một phong cách khuyến khích giữa các cá nhân với nhau: Liệu có thể dạy cách này được không? Tâm Lý Giáo Dục Thời Đại .
- Lý thuyết về tính tự quyết: Cơ sở biện chứng giúp hiểu được những ảnh hưởng văn hóa xã hội đối với động lực của học sinh.
- Giáo viên là những người hỗ trợ: Những giáo viên khuyến khích tính tự chủ của học sinh làm những gì và tại sao học sinh của họ lại được hưởng lợi.
- Kinh nghiệm về tính tự chủ và kiểm soát trong các học sinh Trung Quốc: Phát triển hay giậm chân tại chỗ? Tạp chí tâm lý giáo dục Vansteenkiste, M.
- Các trường cải cách giáo dục để nâng cao chất lượng của học sinh..
- Quá trình cải cách nhằm nâng cao chất lượng học sinh: Đảm bảo và đánh giá.
- 2002) Tính hợp lý của các biện pháp đo lường tính hiệu quả, động lực và khả năng tự điều chỉnh trong quá trình học tập của các học sinh phổ thông trung học ở Thái Lan.
- Nguồn động lực bên trong của học sinh.
- Nhu cầu về tâm lý Tự chủ Thẩm quyền Thân thiện