« Home « Kết quả tìm kiếm

Các vùng khai thác chung trong Luật Quốc tế hiện đại


Tóm tắt Xem thử

- Các vùng khai thác chung trong Luật Quốc tế hiện đại.
- Các vùng khai thác chung trên biển và quy chế pháp lý điều chỉnh đối với chúng ngày càng phát triển trong thực tiễn và trong Luật Quốc tế hiện đại.
- Để góp phần làm sáng tỏ một số vấn đề về các vùng khai thác chung trong Luật Quốc tế hiện đại, trong bài viết này, tác giả phân tích tầm quan trọng của khai thác chung.
- việc thiết lập các vùng khai thác chung giữa các quốc gia theo các góc độ: i) Thiết lập khu vực khai thác chung như là một trong những khả năng lựa chọn để đi đến thiết lập một đường biên giới, ii) Các vùng khai thác chung như là yếu tố bổ trợ cho việc phân định và quản lý đường phân giới trên biển.
- và sự điều chỉnh của Luật Quốc tế đối với hoạt động khai thác chung trên các vùng biển (vùng chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế).
- Bài viết kết luận rằng, chế độ pháp lý cho vùng khai thác chung dù hết sức đa dạng và phức tạp nhưng các quốc gia hữu quan cần có giải pháp tối ưu cho việc xây dựng một quy chế pháp lý hiệu quả nhằm bảo đảm lợi ích công bằng cho các bên, tuân thủ triệt để các quy định của Luật Quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982..
- Tầm quan trọng của khai thác chung.
- Ngày nay, cùng với sự phát triển của khoa học kỹ thuật và sự phát triển của kinh tế, khả năng khai thác biển của con người ngày càng được mở rộng.
- Công ước Giơnevơ năm 1958 về thềm lục địa đã đưa ra một quy tắc của tập quán quốc tế (bắt nguồn từ Tuyên bố của Tổng thống Mỹ Truman năm 1945 và các tuyên bố tương tự của các quốc gia khác) [1], quy định rằng các quốc gia ven bờ có chủ quyền thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên thiên nhiên thuộc thềm lục địa của mình trong phạm vi độ sâu 200m hoặc vượt.
- ra ngoài giới hạn nếu khả năng khai thác cho phép.
- Một hình thức khác của việc mở rộng quyền tài phán của quốc gia ven biển đã được ghi nhận trong Công ước Luật biển năm 1982 với tên gọi là Vùng đặc quyền kinh tế.
- Các tranh chấp phát sinh trong quá trình phân định biển (đặc biệt là phân định thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế), các tranh chấp về việc khai thác và sử dụng biển, đặc biệt tại các khu vực chồng lấn, các khu vực giáp ranh với đường phân giới biển … ngày càng nhiều, thậm chí có khu vực tiềm ẩn nguy cơ dẫn đến xung đột vũ trang, đe dọa hòa bình, an ninh khu vực và thế giới..
- Do đó, hợp tác khai thác chung sẽ làm.
- “loãng” và “mềm” hóa những xung đột và căng thẳng giữa các quốc gia trên biển.
- Như vậy, khai thác chung thông qua phương pháp hòa bình có thể làm dịu đi các tranh chấp, bất đồng quốc tế.
- Điều này đã lý giải nguyên nhân tại sao các khu vực khai thác chung ngày càng trở nên phổ biến [4].
- “giải pháp khai thác chung” dưới những góc độ sau:.
- Thiết lập khu vực khai thác chung (joint development zone) như là một trong những khả năng lựa chọn để đi đến thiết lập một đường biên giới..
- a) Theo phương thức này, đã xuất hiện những thỏa thuận khai thác chung.
- Sớm nhất và có phạm vi hẹp nhất là thỏa thuận khai thác chung giữa Kuwait và Saudi Arabie..
- Vùng khai thác chung đã được xác lập giữa hai nước này trên cơ sở Hiệp định ký vào năm 1922, thay cho đường biên giới giữa hai quốc gia, bao gồm cả khu vực gần bờ và khu vực ngoài khơi.
- Theo Hiệp định này, hai quốc gia Kuwait và Saudi Arabie có quyền chia sẻ công bằng việc khai thác đối với tài sản trong khu vực chung và không thể phân chia các nguồn tài nguyên ở đó, trừ khi hai bên có thỏa thuận khác.
- Việc khai thác chung này vẫn tiếp tục được thực hiện và diễn ra suôn sẻ từ khi Hiệp đinh được ký kết [5]..
- b) Hiệp định về khai thác chung Nhật Bản - Hàn Quốc năm 1974.
- Cuối cùng, hai nước này cũng đạt được một số thỏa thuận khai thác chung vào ngày tại khu vực tranh chấp.
- Tinh thần cơ bản của thỏa thuận này là tạm gác các tranh chấp và coi vùng chồng lấn thành vùng khai thác chung và “vùng khai thác chung không làm phương hại đến yêu sách của các bên liên quan trong việc phân định thềm lục địa” (Điều 28).
- Vùng khai thác chung này có diện tích là 240.092 hải lý vuông, được chia thành 09 tiểu vùng.
- Tại mỗi tiểu vùng sẽ do các công ty của hai quốc gia hợp tác khai thác.
- Một ủy ban được thành lập (Joint Commission) gồm 04 thành viên do hai Chính phủ chỉ định, mỗi bên 02 người (Điều 24) nhằm giám sát các hoạt động trong khu vực khai thác chung.
- Tuy nhiên, hai quốc gia này lại chưa đạt được thỏa thuận phân định biển ở khu vực Tây Timor vì mỗi bên đều kiên trì giữ vững quan điểm của mình trong phân định: Australia thì.
- Cho đến nay, Hiệp định này được coi là thỏa thuận về khai thác chung chi tiết nhất (gồm 34 điều và 04 phụ lục) [7]..
- Việc để vùng B và vùng C dưới sự quản lý của Australia và Indonesia là điểm đặc trưng của thỏa thuận khai thác chung loại này.
- Các hoạt động khai thác dầu khí trong vùng B và vùng C sẽ được điều chỉnh bằng các đạo luật có liên quan của Australia và Indonesia..
- Một Ủy ban hỗn hợp gồm đại diện của hai bên sẽ điều hành các hoạt động khai thác chung trong vùng này.
- Hai bên cùng xây dựng một đạo luật khai thác dầu khí dành cho vùng A dựa trên hợp đồng phân chia sản phẩm.
- Hiệp định có hiệu lực trong khoảng thời gian 40 năm, hết thời hạn này có thể được gia hạn thêm 20 năm tiếp theo, cho đến khi hai quốc gia đạt được thỏa thuận về một đường biên giới vĩnh viễn (Điều 33)..
- Trong khi chưa đạt được một điều ước quốc tế về phân định ranh giới vùng đặc quyền kinh tế, ngày hai nước GhineBitxao và Xênêgan đã cùng ký kết một thỏa thuận về khai thác chung (sau đó ngày thỏa thuận này đã được bổ sung bằng một thỏa ước về tổ chức và hoạt động của cơ quan quản lý chung).
- Điều đáng chú ý là thỏa thuận này được thiết lập cho cả việc khai thác chung các nguồn lợi hải sản và các tài nguyên phi sinh vật của vùng.
- Theo thỏa thuận này, hai bên đã nhất trí thiết lập một cơ quan hỗn hợp nhằm quản lý và giám sát việc khai thác chung ở vùng biển này với thời hạn hiệu lực của thỏa thuận là 20 năm.
- Hiệp định phân định biển giữa Jamaica và Colombia ngày ngoài việc phân định ranh giới trên biển, giữa hai nước còn thiết lập một Vùng khai thác chung ở những nơi hai bên chưa đạt được thỏa thuận về việc phân định ranh giới trên biển.
- “Khu vực có chế độ chung” (JRA) có diện tích khoảng 4.500 hải lý vuông là nơi mà cả hai bên “cùng nhau quản lý, kiểm soát, thăm dò và khai thác tài nguyên sinh vật cũng như phi sinh vật”.
- Các vùng khai thác chung như là yếu tố bổ trợ cho việc phân định và quản lý đường phân giới trên biển.
- Có nhiều thỏa thuận về việc thiết lập vùng khai thác chung nơi đường biên giới (ranh giới) đã được xác định như là một hình thức bổ sung cho việc thực thi chủ quyền quốc gia trên biển đã được ký kết..
- Đến năm 1974, sau khi phát hiện mỏ dầu Fa Abu- Safah, hai nước đã ký với nhau thỏa thuận khai thác chung mỏ dầu này.
- Theo đó, Chính phủ Saudi được trao quyền để tiến hành khai thác và với điều kiện sẽ phải chuyển giao cho Bahrain 50% giá trị thu được từ đó..
- Điều 3 của Hiệp định này quy định rằng “các bên ký kết được áp dụng quy trình bổ sung được quy định trong Phụ lục II cho việc quy định về các quyền thăm dò và khai thác các nguồn tài nguyên trong khu vực được xác định bởi các đường địa chất nối các điểm có tọa độ kèm theo.
- Do đó, khu vực khai thác chung được xác định nằm vắt ngang qua đoạn gấp khúc cuối cùng của đường ranh giới thềm lục địa, với diện tích là 814 hải lý vuông (1).
- Theo các điều khoản được áp dụng cho khu vực khai thác chung tại Phụ lục II của Hiệp định, hai quốc gia khuyến khích việc khai thác tài nguyên trong khu vực dựa trên nguyên tắc công bằng.
- Phù hợp với nguyên tắc này, hai bên cam kết đảm bảo và khuyến khích các doanh nghiệp của hai nước tham gia khai thác trong vùng khai thác chung dựa trên sự bình đẳng về đóng góp tài chính cho hoạt động tương xứng với lợi ích mỗi bên..
- Hai quốc gia còn khuyến khích việc áp dụng các phương thức thích hợp nhằm thiết lập các vùng khai thác chung trong tương lai..
- Hiệp định ngày 16/5/1974 giữa Saudi Arabia và Sudan nhằm thiết lập một khu vực khai thác chung các nguồn tài nguyên của đáy biển và trong lòng đất dưới đáy Biển Đỏ..
- Khu vực chung (Common Zone) là một khu vực của đáy biển nằm ở bên trái khu vực giữa Biển Đỏ, sau khi các quyền chủ quyền của mỗi quốc gia được duy trì tới nơi có độ sâu 1000m (vùng biển từ độ sâu 1000m trở ra là thuộc khu vực khai thác chung).
- Điều này quy định cho việc phân định ranh giới thềm lục địa cũng như việc thiết lập khu vực chung.
- Trong khu vực chung, hai quốc gia có.
- Một Ủy ban chung được thành lập nhằm đảm bảo việc thúc đẩy hoạt động khai thác của khu vưc có hiệu quả.
- Ủy ban này có thẩm quyền rất rộng như điều tra, phân định ranh giới của khu vực chung, đảm bảo việc nghiên cứu liên quan đến việc thăm dò và khai thác ở khu vực chung.
- xem xét, quyết định về chuyển giao công nghệ và nhượng quyền liên quan đến việc thăm dò và khai thác.
- thực hiện những bước cần thiết cho việc tiến hành khai thác, kiểm tra, giám sát hoạt động khai thác.
- Về vấn đề tài chính cho hoạt động của Ủy ban chung, Saudi Arabia đảm nhận một việc cung cấp ngân sách và thu lại từ doanh thu do khai thác được trong khu vực chung và theo thỏa thuận cụ thể giữa hai chính phủ (Điều 12)..
- Sau các phán quyết của Tòa án công lý quốc tế năm 1982 và năm 1985 về thềm lục địa, Libya và Tunisia đã ký kết 03 điều ước quốc tế nhằm thực thi phán quyết của Tòa án quốc tế và thành lập một liên doanh nhằm thăm dò và khai thác khu vực khai thác chung.
- Những văn bản chính thức về thỏa thuận khai thác chung đã không được công bố chính thức, nhưng từ các nguồn thông tin.
- khác nhau đã công bố, khu vực khai thác chung giữ hai quốc gia này dường như được chia làm hai phần, được phân chia trên cơ sở phán quyết năm 1982 của Tòa án quốc tế..
- Mỗi bên sẽ có thẩm quyền tham gia vùng khai thác chung thông qua các công ty được nhượng quyền.
- Các bên sẽ tiến hành thiết lập một Ủy ban tư vấn cho các hoạt động trong khu vực khai thác chung.
- Bằng thỏa thuận này, Tunisia nhận được 10% của thu nhập có được từ việc sản xuất từ các mỏ dầu khí trong thềm lục địa của Libya, tương ứng với phần phía Tây của khu vực khai thác chung [9]..
- Khai thác chung và sự điều chỉnh của Luật Quốc tế.
- Như vậy, việc thiết lập khu vực khai thác chung bởi điều ước quốc tế giữa các quốc gia hữu quan là phù hợp và tuân theo những quy định chung của Luật Quốc tế.
- Vùng khai thác chung được thiết lập tại nơi thềm lục địa chồng lấn.
- Quyền thuộc chủ quyền của quốc gia ven bờ đối với thềm lục địa là vốn có, đương nhiên (Điều 2.3 Công ước Geneve 1958 và Điều 77.1 Công ước Luật Biển năm 1982).
- Trong thềm lực địa của mình, các quốc gia ven bờ có đặc quyền đối với việc thăm dò hoặc khai thác tài nguyên thiên nhiên (gồm dầu và khí) và không một quốc gia nào có quyền đối với việc thăm dò hoặc khai thác những tài nguyên đó mà không có sự chấp thuận của quốc gia ven bờ (Điều 2.1.2 Công ước Geneve 1958 và Điều 77.1.2 Công ước Luật Biển năm 1982).
- Tuy vậy, việc thiết lập khu vực khai thác chung ở trên thềm lục địa và chế độ pháp lý của nó không được vượt quá giới hạn phạm vi các quyền mà Luật Biển quốc tế quy định.
- Do đó, về nguyên tắc, không một chế định nào của vùng khai thác chung được vượt ra ngoài quy định chung của Luật Quốc tế.
- Trong việc khai thác các nguồn tài nguyên khoáng sản ở khu vực khai thác chung, các quốc gia hữu quan cũng sẽ thực thi các quyền tương ứng mà họ có được trong thềm lục địa của mình.
- Những quyền này bao gồm quyền xây dựng và thực thi chủ quyền đối với các trang thiết bị được sử dụng cho hoạt động khai thác tài nguyên như lắp đặt dàn khoan, các đảo nhân tạo… (Điều 5.2.4 Công ước Geneve 1958 và Điều 80 Công ước Luật Biển năm 1982)..
- Bên cạnh các quyền, các quốc gia trong việc thiết lập và vận hành khu vực khai thác chung, còn có nghĩa vụ không can thiệp một cách bất hợp lý đối với các quyền tự do biển cả của quốc gia thứ ba trong vùng khai thác chung (Điều 5.1 Công ước Geneve 1958 và Điều 78.2 Công ước Luật Biển năm 1982)..
- Tuy nhiên, quyền đặt dây cáp và ống dẫn ngầm của quốc gia thứ ba không phải là tuyệt đối.
- Điều 4 Công ước Geneve năm 1958 quy định rằng các quốc gia ven bờ không thể cản trở việc đặt dây cáp và ống dẫn ngầm.
- tuy nhiên quyền của các quốc gia khác trong lĩnh vực này lại “còn tuỳ thuộc vào các quyền của quốc gia ven bờ trong việc đưa ra các quy chuẩn thích hợp cho việc thăm dò và khai thác các tài nguyên thiên nhiên ở thềm lục địa”.
- Công ước Luật Biển năm 1982 lặp lại quy định này và nhấn mạnh thêm rằng “tuyến ống dẫn đặt ở thềm lục địa cần được thoả thuận của quốc gia ven biển” (Điều 79.3)..
- Nhóm nghĩa vụ thứ hai liên quan đến các thiết bị, công trình phục vụ khai thác các nguồn tài nguyên thềm lục địa (gồm cả khu vực khai thác chung).
- Đồng thời, khi đặt dây cáp và ống dẫn ngầm, các quốc gia phải tính đến các dây cáp và ống dẫn đã được lắp đặt trước đó.
- Cuối cùng, có hai nghĩa vụ của quốc gia ven bờ trong việc thực thi các quyền về thềm lục địa của mình.
- Thứ nhất, nghĩa vụ tận tâm thực hiệnviệc ngăn chặn ô nhiễm môi trường biển bởi việc khai thác nguồn tài nguyên đáy biển thuộc quyền tài phán của mình gây ra (Điều 5.7 Công ước Geneve 1958 và Điều 208 Công ước Luật Biển năm 1982).
- Thứ hai, theo Điều 82 Công ước Luật Biển năm 1982, quốc gia ven biển có nghĩa vụ đóng góp bằng tiền hay hiện vật về việc khai thác tài nguyên.
- Do đó, đối với những vùng khai thác chung nằm ngoài phạm vi 200 hải lý tính từ đường cơ sở, các quốc gia thành viên của thoả thuận khai thác chung đương nhiên phải chấp hành nghĩa vụ đóng góp này..
- Một điều cần lưu ý nữa, Luật Biển quốc tế hiện đại đã công nhận các quyền của quốc gia trong khu vực khai thác chung (quyền tự do hàng hải, quyền đánh cá, nghiên cứu khoa học.
- Nếu một trong các quyền của quốc gia thứ ba bị vi phạm ở khu vực khai thác chung, quốc gia nào sẽ chịu trách nhiệm? Về nguyên tắc, tất cả các quốc gia thành viên của thoả thuận khai thác chung sẽ chịu trách nhiệm.
- Tuy nhiên, hầu hết thực tiễn thoả thuận khai thác chung từ trước đến nay trên thế giới đều đưa ra một số điều khoản nhằm khuyến nghị quốc gia thứ ba chia sẻ và thông cảm trong trường hợp quyền lợi của họ không được đảm bảo đầy đủ..
- Việc thiết lập khu vực khai thác chung tại vùng chồng lấn thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.
- Theo quy định của Công ước Luật Biển năm 1982, vùng đặc quyền kinh tế của quốc gia ven bờ được mở rộng ra không quá 200 hải lý tính từ đường cơ sở dùng để tính chiều rộng lãnh hải (Điều 57).
- Quốc gia ven biển còn có quyền tài phán về lắp đặt và sử dụng các đảo nhân tạo, các thiết bị và công trình.
- Về các quyền liên quan đến đáy biển và lòng đất dưới đáy biển của quốc gia ven biển được thực hiện theo đúng quy định tại phần VI (Thềm lục địa) của Công ước..
- Do đó, nếu vùng khai thác chung được thiết lập tại khu vực chồng lấn của thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế thì chế độ pháp lý của vùng khai thác chung sẽ bao gồm chế độ pháp lý của thềm lục địa và vùng đặc quyền kinh tế.
- Các vùng nước chồng lấn trong khu vực khai thác chung khi đó không thuộc biển cả nữa.
- Điều này có nghĩa là các quyền của quốc gia thứ ba bị cắt bỏ đáng kể..
- Trong vùng khai thác chung (thuộc khu vực chồng lấn về đặc quyền kinh tế), các quy định của luật biển quốc tế về quyền hàng hải (2.
- các nghĩa vụ của quốc gia mà tàu thuyền mang cờ (5.
- Vùng khai thác chung nếu được thiết lập tại khu vực chồng lấn của thềm lục địa hoặc của vùng đặc quyền kinh tế thì chế độ pháp lý cho vùng này là hết sức đa dạng và phức tạp.
- Dù các bên tham gia khai thác chung là hai hay nhiều bên, dù luật áp dụng cho vùng khai thác chung là luật nước nào (luật của một trong các bên hay luật của nước thứ ba hoặc luật hỗn hợp do các bên thoả thuận xây dựng nên) thì chế độ pháp lý của vùng khai thác chung cũng phải tuân thủ các quy định của Luật Quốc tế hiện đại, đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982 của Liên hợp quốc..
- Do đó, khi xác lập vùng khai thác chung trên biển, các quốc gia hữu quan cần có sự nghiên cứu xem xét, đánh giá một cách toàn diện, tìm ra giải pháp tối ưu cho việc xây dựng một quy chế pháp lý hiệu quả nhằm bảo đảm lợi ích công bằng cho các bên, tuân thủ triệt để các quy định của Luật Quốc tế, đặc biệt là Công ước Luật Biển năm 1982.