« Home « Kết quả tìm kiếm

Chất liệu nghệ thuật trong bài thơ HOÀNG HẠC LÂU của Thôi Hạo


Tóm tắt Xem thử

- Chất liệu nghệ thuật trong bài thơ HOÀNG HẠC LÂU của Thôi Hạo Chất liệu nghệ thuật trong bài thơ HOÀNG HẠC LÂU của Thôi Hạo.
- Hoàng Hạc lâu (HHL) của Thôi Hạo (704.
- Xin được trích bốn dòng thơ đầu của bài HHL với phần nguyên văn chữ Hán và âm đọc Hán Việt: "昔 人 已 乘 黃 鶴 去 / 此 地 空 餘 黃 鶴 樓.
- Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản / Bạch vân thiên tải không du du.
- Dịch nghĩa: Người xưa đã cưỡi hạc vàng bay đi / Nơi đây chỉ còn lầu Hoàng Hạc.
- Về phần mình, chúng tôi muốn hướng sự chú ý của người đọc vào câu chuyện truyền thuyết được Thôi Hạo kể lại ở dòng thơ đầu: "Tích nhân dĩ thừa hoàng hạc khứ".
- Chúng tôi cho rằng, chính câu chuyện truyền thuyết này mới là chìa khóa giúp chúng ta hiểu được cái "tình" mà tác giả muốn "trữ" ở bài thơ này.
- Các yếu tố thi pháp khác chỉ là biểu hiện tất yếu cho tài kể chuyện kết hợp với trữ tình của Thôi Hạo.
- Không hiểu hàm ý sâu xa của tác giả khi kể câu chuyện này, chúng ta sẽ không hiểu ý nghĩa của các phương thức nghệ thuật, đương nhiên cũng không đánh giá được hết những cống hiến nghệ thuật của Thôi Hạo cho thơ ca cổ điển Trung Quốc và tệ hơn nữa rất dễ sa vào tình trạng đoán mò về nội dung trữ tình của bài thơ..
- Đọc HHL, chúng ta không lạ gì câu chuyện truyền thuyết về lầu Hoàng Hạc được một số cổ tịch của Trung Quốc ghi lại.
- Tuy nhiên, khi Thôi Hạo qua lầu Hoàng Hạc đề thơ, thì những truyện kể trên đã rất phổ biến và hơn nữa còn mang tính chính thống khi giải thích nguồn gốc của ngôi lầu này.
- Đọc kỹ bốn dòng thơ đầu, chúng tôi nảy sinh thắc mắc: trước khi Thôi Hạo trước tác HHL, truyền thuyết trên đã có rồi, vậy những câu chuyện chung một motip người tiên cưỡi hạc vàng bay lên tiên giới có ý nghĩa gì?(5) Lầu Hoàng Hạc được xây dựng ít nhất từ thời Lục triều(6.
- Đó là nguyên do lý giải vì sao, ở lầu Hoàng Hạc xuất hiện nhiều tiên ông cưỡi hạc vàng bay lên tiên giới đến thế..
- Điều quan trọng ở đây là, trong bài thơ của mình, thi nhân Thôi Hạo chỉ sử dụng truyền thuyết trên như một chất liệu để trữ tình.
- Bằng chứng là ngay người đọc bình thường nhất cũng không cho rằng bài thơ của Thôi Hạo qua truyền thuyết trên chỉ thể hiện chủ đề khát vọng trường sinh (dòng thơ thứ ba không cho phép ta nghĩ như vậy - xin xem ở dưới).
- Thôi Hạo rõ ràng muốn gửi đến người đọc một thông điệp khác..
- còn Nguyễn Du trong bài thơ HHL cùng tên với thơ của Thôi Hạo cũng viết: "Hà xứ thần tiên kinh kỷ thì / Do lưu tiên tích thử giang my".
- Chúng tôi cho rằng, HHL của Thôi Hạo đã tạo ra khoảng cách thẩm mỹ đáng kể với người đọc, khiến chúng ta khi "vấp ngã vào văn bản" đã bị rơi vào những khoảng trống câm lặng.
- Đọc HHL, sau khi hiểu được chủ đề của truyền thuyết dân gian mà Thôi Hạo sử dụng làm chất liệu, chúng ta cần phải trả lời câu hỏi thứ hai (vẫn liên quan đến truyền thuyết về lầu Hoàng Hạc): câu chuyện người tiên cưỡi hạc vàng bay lên tiên giới nếu không bộc lộ khát vọng trường sinh thì thể hiện điều gì? Có thể nói, đây là câu hỏi quan trọng nhất mà bài viết này hướng tới, bởi nó là một trong vài lý do giải thích vì sao Lý Bạch phải gác bút bái phục Thôi Hạo.
- Thủ pháp đối lập mất - còn cùng với phương thức tự sự kết hợp trữ tình ở liên 1 đưa người đọc tới cảm nhận về cái điều đúng như thi nhân Ngô Thì Vị viết: "Lầu không vẫn đấy thấy tiên đâu.
- Tiếp theo, ở liên 2, chúng tôi tìm hiểu "cái được biểu hiện" của những tín hiệu thẩm mỹ được "lạ hóa" đến mức cực đoan nhằm thu hút sự chú ý của người đọc (nhất là dòng đầu: Hoàng hạc nhất khứ bất phục phản)(9), cùng với đó là phương thức tự sự kết hợp trữ tình và thủ pháp đối lập mất - còn lặp lại lần nữa.
- Tất cả những yếu tố nghệ thuật đó khiến người đọc nhận ra, chủ thể trữ tình đang bộc lộ nỗi niềm tiếc nuối đến mức nghẹn ngào về một điều gì đó vô cùng tốt đẹp đã một đi không trở lại.
- Câu hỏi cuối cùng đột nhiên xuất hiện: điều tốt đẹp mà chủ thể trữ tình vô cùng tiếc nuối đó là gì? Câu trả lời nằm ngay trong thủ pháp đối lập rất tinh tế giữa "hoàng hạc nhất khứ bất phục phản" và "bạch vân thiên tải không du du".
- "Hoàng hạc" ở dòng thơ trên đến dòng thơ này, nhờ cấu trúc đặc biệt của những thanh trắc nối tiếp nhau liên tục, đã thực sự chuyển nghĩa trở thành biểu tượng cho điều tốt đẹp "nhất khứ bất phục phản".
- hơn nữa, nhờ sự đối lập với dòng thơ mô tả về sự vĩnh hằng của giới tự nhiên, khiến người đọc nhận ra, đó chính là cảm nhận mang tính chủ quan của chủ thể trữ tình về nhân thế, đó chính là kết quả của những suy ngẫm giàu tính triết lý trong quan hệ đối sánh với tự nhiên.
- Như vậy, xét trên bình diện lịch sử, những cảm nhận mang tính chủ quan của chủ thể trữ tình đi từ nhân sinh đến thế sự trong thơ HHL, hoàn toàn có thể quy chiếu ra ngoài thực tại, đó phải chăng chính là phản chiếu tâm thái của thi nhân Thôi Hạo trước nhân sinh "nhược mộng" và thế sự "thịnh suy vô thường" khi "đăng" Hoàng Hạc lâu.
- Trong niềm tiếc nuối của chủ thể trữ tình về thế sự tốt đẹp đã lùi vào quá khứ đã chứa đựng cả sự thất vọng đối với hiện tại..
- Có thể nói, HHL của Thôi Hạo không chỉ là kiệt tác của thi ca cổ điển, nhìn từ góc độ thi pháp học cấu trúc, chúng tôi còn thấy, đó còn là thi phẩm rất hiện đại.
- Chính chất liệu huyền thoại đó đã khiến HHL của Thôi Hạo đề cập đến những vấn đề vừa mang tầm vóc thời đại, vừa có ý nghĩa muôn thuở..
- CHẤT LIỆU THIÊN NHIÊN.
- Cùng với truyền thuyết người tiên cưỡi hạc vàng bay lên tiên giới, thiên nhiên trong Hoàng Hạc lâu (HHL) của Thôi Hạo cũng là chìa khóa quan trọng giúp chúng ta giãi mã nghệ thuật bài thơ này..
- Chúng tôi nghĩ, thiên nhiên trong HHL lung linh đa nghĩa hơn nhiều, xứng đáng trở thành đối tượng để chúng ta nghiên cứu.
- Cũng như truyền thuyết dân gian về lai lịch ngôi lầu, thiên nhiên trong HHL là chất liệu nghệ thuật, đàng sau nó ẩn chứa quan niệm nghệ thuật, tư tưởng tình cảm và tài năng thơ ca của tác giả..
- Thiên nhiên được coi là chất liệu cơ bản nhất của thi ca cổ điển Trung Quốc nói chung, thơ Đường nói riêng.
- Ngay từ Thi kinh, tuyển tập thi ca sớm nhất trong lịch sử văn học Trung Quốc, thiên nhiên đã xuất hiện, tạo nên một trong những mô thức trữ tình đầu tiên trong văn học sử của đất nước thi ca này: "Khảm khảm phạt đàn hề, chí chi hà chi can hề.
- Cùng với hai dòng đầu mô tả công việc khó nhọc của người nông nô xưa (chặt gỗ đàn tiếng búa chan chát, kéo gỗ ra chất bên bờ sông), thiên nhiên trong dòng thơ tiếp theo (nước sông trong và gợn sóng.
- mặc dù chỉ một dòng mà tạo nên vầng trán suy tư với bao câu hỏi không lời đáp, quyện chặt với phần trữ tình ở đoạn thơ sau, đó là những câu cật vấn và phản vấn của nhân vật trữ tình nhằm vạch trần và tố cáo hành vi bóc lột của tầng lớp chủ nô (không cấy không gặt, vậy mà sao lấy những ba trăm bó lúa, không săn không bắn, vậy mà sao trong sân treo lủng lẳng những con chồn.
- Phương thức trữ tình đó sau này trở thành rường cột của thi ca cổ điển Trung Quốc.
- Người Trung Quốc dường như luôn có thiên nhiên bên mình.
- Thiên nhiên trong thơ trữ tình ban đầu chỉ đơn giản như thế.
- Đến Khuất Nguyên, nhà thơ vĩ đại đầu tiên trong lịch sử văn học Trung Quốc, thiên nhiên đã trở thành cơm ăn áo mặc: "Ăn hoa rụng bên nhành thu cúc, uống sương sa dưới gốc mộc lan.
- Chính Khuất Nguyên, trong những bài thơ trữ tình cỡ lớn theo điệu nước Sở của mình (Ly tao, Cửu chương) đã có những sáng tạo độc đáo và đưa phương thức nghệ thuật "tỉ" (đã xuất hiện từ Thi kinh) lên tầm cao mới.
- Tuy nhiên, thiên nhiên trong Thi kinh, Sở từ (đều tr.
- Phải đến khi văn học bước vào giai đoạn tự giác với sáng tác của các văn nhân từ cuối đời Hán trở đi, thiên nhiên mới thực sự trở thành đối tượng mô tả độc lập tương đối, phương thức và thủ pháp mới dần thoát khỏi mô thức quen thuộc của dân gian(11)..
- Bốn dòng đầu của bài thơ, ngôn ngữ vẫn còn rất gần với tản văn, nên chú ý của chúng tôi dồn vào bốn dòng thơ cuối, trong đó hai dòng đầu tả cảnh (in đậm), hai dòng sau trữ tình (tình hiểu theo nghĩa rộng).
- (2) Dấu vết của mô thức tả cảnh trữ tình vẫn còn, song nội dung trữ tình đã bị "giấu đi" qua cách nói "dục biện dĩ vong ngôn".
- Chúng tôi cho rằng, bốn dòng thơ trên chính là dạng thức trung gian thứ nhất, là tín hiệu báo trước cho sự biến đổi của tư duy và nghệ thuật thơ ca sau này..
- Phải đến giữa đời Đường, chúng ta mới thấy xuất hiện những bài thơ như Vọng Lư Sơn bộc bố (Lý Bạch), Tuyệt cú (Đỗ Phủ), Phong Kiều dạ bạc (Trương Kế), Hoàng Hạc lâu (Thôi Hạo), Trừ Châu Tây Giản (Vi Ứng Vật) v.v.
- Quan sát cấu trúc, chúng tôi thấy, các bài như Phong Kiều dạ bạc, Trừ Châu Tây Giản v.v, cục bộ vẫn còn lưu lại dấu tích của mô thức tả cảnh trữ tình, tuy nhiên thế lưỡng phân đẳng trị giữa hai vế đã không còn(13), mà thay vào đó là sự rút gọn đến mức tối thiểu của vế trữ tình.
- Đọc kỹ những dòng thơ trên, chúng ta rất dễ nhận ra, có một tư duy thơ, một trình độ nghệ thuật thơ hết sức sáng tạo và mới mẻ đã chi phối sự biến đổi mô thức trữ tình quen thuộc.
- Thành phần trữ tình cụ thể rõ ràng trước kia, nay đã bị rút gọn và thay bằng một số động từ có ý nghĩa khái quát (sầu - nhớ, liên - thương), còn thành phần tả cảnh thì ngược lại có xu hướng tăng cường tính nghệ thuật, vươn ra chiếm lĩnh trận địa.
- Có thể coi đó là dạng thức trung gian thứ hai kế tiếp dạng thức thứ nhất thể hiện ở bốn dòng thơ trong bài Ẩm tửu của Đào Uyên Minh.
- Vai trò của nó trong những bài thơ trên là dường như muốn tạo ra bước đệm cho sự lĩnh hội của độc giả đối với những sáng tạo còn mới mẻ và triệt để hơn xuất hiện ngay ở hai dòng thơ sau đó..
- Vế trữ tình không chỉ co hẹp rút gọn đến mức nhỏ nhất như hai dòng thơ đầu ở trên, mà còn biến mất hẳn như hai dòng thơ cuối.
- Đối với những bài, những câu có bộ thủ này, chúng ta đọc dễ hơn rất nhiều.
- Điều đó cũng có nghĩa, những bài trữ tình như Vọng Lư Sơn bộc bố, Tuyệt cú, hay những dòng thơ vắng bóng những chữ có bộ tâm trong Phong Kiều dạ bạc, Hoàng Hạc lâu, hay Trừ Châu Tây Giản, thì đương nhiên là rất trừu tượng và khó hiểu.
- Những bài đó thường vẽ nên những bức tranh thiên nhiên hoàn chỉnh, có xu hướng "mỹ hóa" và tẩy chay tất cả mọi biểu hiện của thế tục, chỉ cho phép con tim (qua bộ tâm) và bóng dáng khiêm tốn của chủ thể trữ tình (qua điểm nhìn mô tả) hiện diện.
- Tác dụng, mục đích của những bức tranh đó là đối lập với thực tại và thể hiện một cách kín đáo thế giới tinh thần phong phú của chủ thể trữ tình.
- Đầu đời Đường, những bức tranh thiên nhiên như vậy vẫn còn chưa xuất hiện, phải đến giai đoạn Thịnh Đường, với nhiều nhân tố kết hợp, mới cấu thành những đỉnh cao nghệ thuật "sánh thọ cùng thiên địa" (Khuất Nguyên - Thiệp Giang)..
- TRỞ LẠI VỚI THIÊN NHIÊN TRONG HOÀNG HẠC LÂU.
- Bức tranh tổng quan vắn tắt trên phần nào giúp chúng ta nhận diện thiên nhiên trong HHL của Thôi Hạo.
- Có thể thấy, cả hai dạng thức thiên nhiên trên cùng tồn tại ở bài thơ này.
- Dạng thức thứ nhất (kế thừa truyền thống) xuất hiện ở dòng thơ thứ tư "白 雲 千 載 空 悠 悠" (Bạch vân thiên tải không du du) và ở dòng thơ cuối "煙 波 江 上 使 人 愁" (Yên ba giang thượng sử nhân sầu).
- Bốn dòng thơ đầu của chương 1/8, thiên Tiểu biền (Tiểu Nhã) đã đối lập cảnh đàn quạ tụ họp nhàn nhã cùng nhau bay về tổ với nỗi ưu sầu của người con bị phụ thân ruồng đuổi.
- Đào Uyên Minh trong Quy khứ lai hề từ cũng có bốn dòng thơ đối lập sinh mệnh con người với thiên nhiên vô cùng tươi đẹp: "Mộc hân hân dĩ hướng vinh / Tuyền quyên quyên nhi thủy lưu.
- "Bạch vân thiên tải không du du" của Thôi Hạo sử dụng hình thức đối lập: mất - còn, động - tĩnh, thường biến - bất biến, khi soi chiếu qua quan hệ giữa "hoàng hạc nhất khứ bất phục phản" (tạm thời thường biến) với thiên nhiên (vĩnh hằng bất biến), sẽ giúp ta hiểu ra "hoàng hạc nhất khứ bất phục phản" chính là cảm nhận của chủ thể trữ tình về nhân thế.
- Đàng sau sự tiếc nuối chính là nỗi thất vọng vô bờ bến của chủ thể trữ tình về một cõi người, cõi đời đã không còn gì tốt đẹp nữa.
- Như vậy, thiên nhiên ở dòng thơ thứ tư giúp ta nhận ra, nội dung của bốn dòng thơ đầu, không chỉ là "đắm chìm mãi trong cảnh tiên" (Văn học 10), mà còn bộc lộ tình cảm, thái độ của chủ thể trữ tình trước thực tại.
- Nói cách khác, chủ đề "tích cổ thương kim" (tiếc xưa đau nay) đã bộc lộ ngay ở bốn dòng thơ đầu và đó chính là chủ đề tư tưởng quan trọng hỗ trợ chúng ta giải mã liên thơ tiếp theo..
- Đối với dòng thơ cuối của HHL, mặc dù co gọn ở mức ngắn nhất, song mô thức xúc cảnh sinh tình quen thuộc vẫn hiện diện rõ nét: "Yên ba giang thượng / sử nhân sầu".
- Cú pháp của dòng thơ này giúp ta nhận diện dễ dàng mô thức đó, song cũng chính nó đã ít nhiều tạo ra rào cản, khiến độc giả đương đại không thể hiểu nổi vì sao "yên ba giang thượng" lại có thể "sử nhân sầu".
- Chẳng hạn, tác giả bài phân tích bình giảng HHL trong cuốn Phân tích - bình giảng tác phẩm Văn học 10, sau khi viết rất kỹ lưỡng và uyên bác về bài thơ, không hiểu sao đã gần như bỏ qua mệnh đề mô tả thiên nhiên ở dòng thơ này(17).
- Hình tượng thiên nhiên do bốn chữ "yên ba giang thượng" tạo nên, tuy chỉ chiếm một góc nhỏ trong không gian của buổi hoàng hôn ở lầu Hoàng Hạc, song thông qua phân tích so sánh, có thể giúp học sinh kết nối hiểu biết của mình về thơ cổ với những câu Thơ Mới trong bài Tràng giang của nhà thơ Huy Cận..
- Thực ra, khi đã hiểu "yên ba giang thượng sử nhân sầu" là mô thức xúc cảnh sinh tình quen thuộc, khi đã nhận biết đó chính là phương thức khẳng định bản ngã trong thơ ca cổ điển Trung Quốc, chúng ta có lẽ sẽ không cần phải phát huy đến mức quá cao trí tưởng tượng phong phú như các nhà văn nhà báo, bởi "yên ba giang thượng" đơn giản chỉ là vài nét phác họa về hiện tượng thời tiết của buổi hoàng hôn khói sương mờ mịt trên sông, qua đó khắc họa bức tranh thiên nhiên nước trời nhất thể.
- Điều quan trọng ở dòng thơ này là Thôi Hạo muốn lồng khối sầu "vạn cổ" vào không gian "thủy thiên nhất sắc" thấm đẫm quan niệm thiên nhân hợp nhất đó, nhằm mục đích vũ trụ hóa nỗi sầu mang tầm vóc thời đại và có ý nghĩa muôn thuở của chủ thể trữ tình.
- Đây chính là đặc điểm và phương thức trữ tình của thơ ca cổ đại, là cơ sở tri thức khiến chúng ta cảm thấy vô cùng hứng thú khi đọc câu thơ của Huy Cận: "Lòng quê rợn rợn vời con nước, không khói hoàng hôn cũng nhớ nhà" (Tràng giang).
- Tuy sử dụng HHL của Thôi Hạo làm thi liệu, song về cơ bản, Tràng giang của Huy Cận đã bước qua thời cổ trung đại, chuyển sang một thời đại mới.
- Ở dạng thức thứ hai, người đọc sẽ được chứng kiến những sáng tạo vượt bậc của Thôi Hạo về luật thi qua bức tranh mô tả thiên nhiên ở liên thơ thứ ba.
- Liên thơ này chính là hậu duệ của bốn dòng thơ trong bài Ẩm tửu của Đào Uyên Minh, trong quá trình tiến hóa đã "đứt đuôi nòng nọc" (biến mất 2 dòng cuối) và trưởng thành (từ ngũ ngôn thành thất ngôn).
- Khác với những dòng thơ mô tả thiên nhiên ở dạng thức thứ nhất, chúng ta thấy, liên thơ thứ ba đã không còn lại dù chỉ là một chút dấu vết của mô thức tả cảnh trữ tình.
- Thi nhân Thôi Hạo đã treo bức tranh thiên nhiên của ông ngay cạnh bức tường đối xứng với những truyền thuyết hư ảo khá nhiều dị bản về ngôi lầu Hoàng Hạc.
- Điều đó khiến ta cảm nhận rất rõ, từ liên thứ nhất đến liên thứ ba, Thôi Hạo đã thực hiện hai cuộc hành trình: hành trình thứ nhất đưa ông ngược về quá khứ, cố gắng níu kéo bóng hạc vàng trong cõi mộng.
- Bóng hạc vàng thì đã một đi không trở lại, còn thiên nhiên thì đẹp đến nao lòng.
- Trong thế song chiếu với thực tại, cả bóng hạc "bất phục phản" lẫn thiên nhiên tươi đẹp, tất thảy đều cho thấy nỗi thất vọng của chủ thể trữ tình về cõi người cõi đời..
- Không chỉ qua tác dụng tương phản thể hiện cảm nhận về nhân thế, thiên nhiên ở liên thứ ba, do tính chất độc lập tương đối, còn trở thành biểu tượng giàu ý nghĩa ẩn dụ và tượng trưng.
- Chẳng hạn, Lý Bạch trong Độc tọa Kính Đình sơn đã đồng nhất chủ thể trữ tình với ngọn núi Kính Đình, khẳng định nhân cách "độc lập bất thiên" (độc lập không dời), Đỗ Phủ qua Vọng Nhạc đồng nhất chí hướng hoài bão lớn lao với ngọn núi Thái Sơn hùng vĩ, Vi Ứng Vật trong Trừ Châu Tây Giản đã đồng nhất chủ thể trữ tình với con thuyền xoay ngang thảnh thơi trên bến vắng, qua đó khẳng định bản ngã trước thế tục v.v.
- Thôi Hạo trong liên thơ thứ ba này cũng thế, khắc họa bức tranh thiên nhiên tươi đẹp và trong trẻo không ngoài mục đích là khẳng định chí khí, tiết tháo của chủ thể trữ tình..
- Có thể nói, ngợi ca thiên nhiên và khẳng định bản ngã trong thơ ca cổ điển Trung Quốc luôn là cặp song sinh, phản chiếu cảm nhận và ứng xử nhân sinh - thế sự của tác giả.
- Thiên nhiên vì thế vừa như tả thực, tạo nên niềm tin có thật cho độc giả về thế giới ảo, vừa có xu hướng "mỹ hóa" và trừu tượng hóa theo quy tắc ước lệ, vì vậy rất giàu tính triết lý.
- Thế giới thiên nhiên trở thành hệ quy chiếu thế giới tinh thần của chủ thể trữ tình..
- Tóm lại, thiên nhiên trong thơ HHL của Thôi Hạo, tuy phạm vi chỉ thuộc một bài thất ngôn luật thi, song đã phong phú đến độ dung chứa cổ kim, bao quát thiên địa.
- Thế giới thiên nhiên đó đã góp phần tạo nên sự đa dạng của cấu trúc cảnh / tình: khi thì hiện diện trong nội bộ một dòng (dòng cuối), khi thì tái hiện trong nội bộ một liên (liên thứ 2), khi lại mở rộng quy mô và cấp độ ra cả nửa bài (liên 3-4).
- Thế giới thiên nhiên đó không chỉ thể hiện sự kế thừa đối với truyền thống thi ca, mà còn thể hiện sự sáng tạo vượt bậc của tác giả đối với loại chất liệu cơ bản nhất trong thơ Đường.
- Nghệ thuật khắc họa bức tranh thiên nhiên tuyệt mỹ ở liên thơ thứ ba nói riêng và cách luật ở bốn dòng thơ cuối nói chung thực sự là cơ sở quan trọng và đáng tin cậy giúp ta khẳng định, Thôi Hạo là người rất giỏi thơ luật.
- Đó có phải là sáng tạo xuất sắc của Thôi Hạo hay đơn thuần chỉ là sự mô phỏng tiền nhân? Tuy nhiên, đây là vấn đề khá phức tạp, chúng tôi xin được gác lại trình bày ở bài viết sau1.
- Hiểu được điều này, chúng ta mới đánh giá đúng tài năng và đóng góp của Thôi Hạo cho nghệ thuật thơ ca..
- (9) Dòng thơ trên gồm 6 thanh trắc / dòng thơ 7 chữ, bản hòa âm kỳ lạ giàu tính tạo hình và sức biểu cảm, khiến chúng tôi hình dung và cảm nhận như là những tiếng nấc xót xa tiếc nuối.
- (11) Cùng với vũ trụ quan "thiên nhân hợp nhất", từ cuối Hán trở đi, thơ ca mô tả thiên nhiên cũng chịu ảnh hưởng không nhỏ quan niệm thi giáo của Nho gia và những biến thái tinh vi của quan niệm đó, nhất là "mỹ thích tỷ hứng".
- Quan niệm "mỹ thích tỷ hứng" khi kết hợp hài hòa với đặc trưng tế nhị uyển chuyển của thi ca, đã tạo nên những bức tranh thiên nhiên trong thơ Đường rất giàu cảm hứng thế sự, song lại vô cùng vi tế, sâu xa, kín đáo.
- Bài thơ phân đôi cảnh / tình thành hai vế khá rõ rệt theo quan hệ đồng đẳng, nội dung trữ tình là rất cụ thể và trực tiếp.