« Home « Kết quả tìm kiếm

CHỦ ĐỀ TƯ TƯỞNG VÀ VẤN ĐỀ CỔ THỂ CẬN THỂ TRONG HOÀNG HẠC LÂU CỦA THÔI HẠO


Tóm tắt Xem thử

- TRONG HOÀNG HẠC LÂU CỦA THÔI HẠO.
- “ĐĂNG LÂU TƯ HƯƠNG” VÀ KHỐI “SẦU”.
- “Đăng lâu tư hương” không chỉ khái quát nội dung bài thơ Hoàng Hạc lâu (HHL) của Thôi Hạo, mà còn đề cập đến phương thức nghệ thuật cơ bản của thơ ca cổ điển Trung Quốc.
- Đối với nhiều bài thơ trữ tình xuất hiện trước đời Đường và ngay ở đời Đường, nội dung này là rất phổ biến và chính xác, song đối với HHL thì e rằng mệnh đề đó chỉ đúng một nửa..
- Thực ra, thi nhân Trung Quốc thời cổ đại không phải chỉ “đăng lâu” mới “tư hương”.
- chẳng hạn: Lý Bạch trong bài Tĩnh dạ tứ “cử đầu vọng minh nguyệt / đê đầu tư cố hương” (ngẩng đầu nhìn trăng sáng / cúi đầu nhớ quê hương), Thôi Hạo trong bài tuyệt cú cổ thể Trường Can khúc cũng bộc lộ nỗi nhớ quê hương rất giàu ý vị qua lời đối thoại của một cô gái tính tình bộc trực sống trên vùng sông nước với một chàng trai mà nghe giọng nói cô ngợ là người cùng quê: “Quân gia hà xứ trú / Thiếp trú tại Hoành Đường.
- Đình thuyền tạm tá vấn / Hoặc khủng thị đồng hương” (Nhà chàng ở nơi nao / Thiếp ở ngay Hoành Đường.
- Cũng thế, các nhà thơ đâu phải chỉ “tư hương” khi “đăng lâu”: Trần Tử Ngang (Đăng U Châu đài ca), Vương Chi Hoán (Đăng Quán Tước lâu) đã đăng đài, đăng lâu thể hiện khát vọng sự nghiệp.
- Có thể nói, “đăng lâu tư hương”, “vọng nguyệt hoài thân” từ lâu đã trở thành đề tài - chủ đề quen thuộc trong văn học cổ đại Trung Quốc..
- Có lẽ chính vì “đăng lâu tư hương” gợi độc giả nhớ lại những gì đã đọc và hòa hợp với “tầm đón nhận” quen thuộc, nên mặc dù HHL không mở đầu bằng những câu thơ kỷ du, vịnh cảnh thường thấy, thay vào đó lại là truyền thuyết người tiên cưỡi hạc vàng được kể bằng những dòng thơ phá luật, song bài thơ vẫn nhận được sự đồng cảm rộng rãi.
- Bất cứ lúc nào và bất kể nơi đâu, đọc HHL, độc giả đều ngậm ngùi trước nỗi “sầu” của người lữ khách tha phương: trời đà dần tối mà quê hương vẫn còn mờ mịt nơi nao?! Phải nói rằng, đó chính là cái tài của nhà thơ Thôi Hạo.
- Bài thơ của ông chắc hẳn đã kế thừa toàn diện truyền thống văn học, do vậy đã không gây sốc cho người đọc.
- Tuy nhiên, cũng phải sòng phẳng nói rằng, HHL không đơn giản chỉ là bài thơ như vậy, cái tài của Thôi Hạo cũng không đơn thuần chỉ có thế..
- Qua tìm hiểu, chúng tôi thấy, cách đọc HHL của độc giả ngày nay đã không chú ý đúng mức tới đặc điểm ước lệ tượng trưng của thơ ca cổ đại.
- Chúng ta đã quá “cả tin” và dễ dàng đồng nhất “tư hương” với chữ “sầu” ở cuối bài thơ(1).
- Hơn nữa, dưới tác động và chi phối của nó, người đọc đã đi quá xa khi diễn giải dòng thơ thứ tư: “Lầu chơ vơ, mây trắng bồng bềnh có khác chi thân phận nổi nênh của người sống trong cảnh tha hương lữ thứ”(2), hoặc suy diễn theo lối thông thái không cần thiết về hai chữ “hương quan”: “Không nên hiểu hai chữ hương quan trong bài thơ này chỉ theo nghĩa hẹp là nơi chôn rau cắt rốn mà còn cần hiểu là một xứ sở mà ở đấy con người xưa kia có thể an cư, có nơi nương tựa trong cuộc đời đầy sóng gió”(3)..
- Giới phê bình đại học không phải không thấy, ngoài “tư hương” ra, còn có một chủ đề khác ở bài thơ đăng lâu này(4).
- Tuy nhiên, những cảm nhận về chủ đề tư tưởng của bài thơ khi thì được trình bày một cách khái quát cho cả bài, khi thì chỉ đề cập cục bộ đến một hai liên, vừa thiếu tính chỉnh thể, vừa không đưa ra cơ chế suy luận, nên thường rất khó nắm bắt.
- Do không giải mã được chất liệu nghệ thuật và không quán triệt đặc trưng thi pháp của thơ ca cổ đại Trung Quốc, nên rốt cuộc chúng ta đã không xác lập được mạch cảm xúc của bài thơ..
- Những phân tích về nghệ thuật sử dụng chất liệu (huyền thoại và thiên nhiên) của Thôi Hạo trong HHL ở bài viết trước đã giúp chúng tôi nhận ra một mạch ngầm xuyên suốt bài thơ đa tầng bậc này.
- Nó là sợi dây nối kết tất cả những đứt gãy ở bề mặt văn bản khiến bài thơ trở thành một chỉnh thể và đó chính là mạch cảm xúc chủ đạo giúp chúng ta hiểu được chủ đề tư tưởng của tác phẩm.
- Để tiện theo dõi, chúng tôi xin cụ thể hóa điều đó như sau:.
- Thử địa không dư Hoàng Hạc lâu.
- “Tư hương” và đằng sau tình cảm đó ẩn chứa thái độ và phương thức ứng xử nhân sinh, thế sự của chủ thể trữ tình..
- Qua diễn giải trên, chúng ta có thể thấy, cảm xúc trữ tình của thi nhân đi từ cảm nhận suy ngẫm về nhân sinh đến cảm nhận suy tư về thế sự (hai liên đầu), cả hai cảm nhận đó đều khiến chủ thể trữ tình vô cùng thất vọng về nhân thế.
- Thế nghiêng lệch của nó đã cho ta câu trả lời ở liên cuối của bài thơ.
- Do vậy, “nhật mộ hương quan hà xứ thị”, bề mặt là bộc lộ “tư hương”, song ẩn sau nó là thái độ và ứng xử đối với nhân sinh và thế sự của chủ thể trữ tình..
- Một câu hỏi được đặt ra: vì sao “tư hương” lại được hiểu như là thái độ và phương thức ứng xử nhân sinh thế sự của chủ thể trữ tình?.
- Đây thực sự là một bí ẩn mà Thôi Hạo đã kín đáo sắp đặt một cách rất tự nhiên vào giữa cấu trúc của hai liên 3-4.
- Ở liên thứ ba, khi bằng trắc của hai dòng thơ đã quay trở lại với vẻ hài hòa thường thấy của luật thi thì người đọc lại bắt gặp những tín hiệu âm thanh được lạ hóa, đó là những từ láy (điệp tự): “lịch lịch” (rõ mồn một - hình dung rừng cây soi bóng xuống mặt sông trong), “thê thê” (xanh mơn mởn - hình dung cỏ xuân mọc trên bãi sông).
- Như vậy, cùng với “tư hương” và nỗi đau nhân sinh thế sự, ở chữ “sầu” còn có nỗi buồn của một trí thức chân chính khi phải đối mặt với sự lựa chọn nhân sinh bất đắc dĩ.
- Khối sầu trong HHL quả thực mênh mang vời vợi, hệt như cảnh “yên ba giang thượng” mà Thôi Hạo mô tả, chỉ có cách nói “dục biện dĩ vong ngôn” của Đào Uyên Minh mới diễn tả hết được.
- Lẽ nào chúng ta lại giản đơn đồng nhất nó chỉ với mỗi nỗi niềm “tư hương” được..
- Đem quy tắc luật thi ra mổ xẻ hình thức của bài thơ (số chữ, số dòng, vần, bằng trắc, đối trượng), nhất là 4 dòng thơ đầu, nhiều người đọc đều có những nhận xét tương đồng.
- Lý do là bởi người Việt Nam, nhờ cách đọc Hán Việt và tri thức uyên bác về luật thi (do truyền thống khoa cử của cha ông truyền lại), đôi khi còn giỏi hơn cả người Trung Quốc trong việc nhận diện và “cho điểm” một bài thơ đúng hay sai luật.
- Gần đây, với bài viết Về lối thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu(6), thì công việc này đã được đẩy lên một bước mới, vô cùng chi tiết và toàn diện.
- Vấn đề nổi cộm ở đây là, bài thơ rõ ràng “phạm luật” với những chứng cứ rất đầy đủ, thế mà hai vị thi luận gia được coi là nổi tiếng nhất của Trung Quốc thời cổ đại là Nghiêm Vũ (đời Tống) và Kim Thánh Thán (cuối Minh đầu Thanh) vẫn cứ một mực cho rằng, HHL là bài thất ngôn luật thi - đệ nhất(7).
- Hiện nay, ngay cả khi GS Vương Lực, một trong số ít người được coi là có quyền uy học thuật của Trung Quốc đưa ra ý kiến rằng, HHL là bài “luật thi kiểu cổ phong”(8), thì người đọc quan tâm đến bài thơ này vẫn không khỏi ngơ ngác trước ý kiến trái ngược giữa cổ nhân và kim nhân.
- Qua quan sát tiếp nhận thơ Đường ở Việt Nam, chúng tôi thấy, đây là vấn đề thú vị, không chỉ có ý nghĩa trong việc tìm hiểu HHL, mà còn có ý nghĩa về phương pháp luận trong việc nhận thức văn học cổ nói chung.
- Bài viết của chúng tôi do vậy sẽ không chú tâm mô tả lại hình thức thể loại của bài thơ nữa, mà trên cơ sở đó, tập trung bàn luận một số khía cạnh ẩn dấu đằng sau vấn đề cổ thể và cận thể..
- HOÀNG HẠC LÂU THUỘC GIAI ĐOẠN NÀO CỦA QUÁ TRÌNH PHÁT TRIỂN THƠ ĐƯỜNG NÓI CHUNG, LUẬT THI NÓI RIÊNG?.
- (2) Cho HHL là bài thơ “phạm luật”, nghi hoặc HHL là bài luật thi.
- Cả hai kết luận này, mặc dù khác nhau về biện thể, song đều nhất trí ở chỗ đánh giá cao thành tựu nghệ thuật của HHL, dành cho bài thơ địa vị xứng đáng trong lịch sử văn học của Trung Quốc và nhân loại.
- Ở cuốn sách khác, ông đề cập đến một điều rất có ý nghĩa khi đọc HHL của Thôi Hạo: “Những tác phẩm luật thi được đưa ra phân tích thường là những tác phẩm xuất sắc, do đó, đều là những công trình sáng tạo.
- Điều đó bộc lộ khá rõ trong Ngữ Văn 10 - Sách giáo viên: “Nhiều ý kiến cho rằng Hoàng Hạc lâu là luật thi đệ nhất nhưng bốn câu đầu của bài thơ câu nào cũng không đúng luật.
- Thực ra, Hoàng Hạc lâu là một bài thơ cổ luật điển hình”(11).
- Trở lại với câu hỏi được đặt ra: HHL thuộc giai đoạn nào của quá trình phát triển thơ Đường nói chung, thể loại luật thi nói riêng? Có thể nói, đây là câu hỏi rất căn bản thuộc lĩnh vực văn học sử, tiếc rằng đối với HHL, chúng ta ít có điều kiện suy nghĩ nghiêm túc.
- GS Vương Lực sau khi xếp HHL của Thôi Hạo vào mục “luật thi kiểu cổ phong” đã giải thích rằng: “khi thơ luật còn chưa định hình hóa, có một số bài thơ luật vẫn chưa hoàn toàn dựa vào cách thức bằng trắc của luật thi, đối trượng cũng chưa hoàn toàn công chỉnh”.
- Ông nêu ví dụ bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hạo và phân tích đặc điểm hình thức của nó rồi đưa ra kết luận: “nửa đầu là cách điệu của cổ phong, nửa cuối mới là luật thi” (Vương Lực: Thi từ cách luật, sđd, tr.
- Nó là chỗ dựa cho quan niệm HHL là bài “luật thi kiểu cổ phong” (ở Trung Quốc), hay “cổ luật điển hình” (ở Việt Nam), từ đó ảnh hưởng đến việc nhận thức và đánh giá đúng đắn vị trí của HHL trong lịch sử văn học.
- Do vậy, trên cơ sở tiếp thu thành tựu nghiên cứu văn học sử của học giả Trung Quốc gần đây, cùng với việc khảo sát nghiêm túc tác phẩm, chúng ta hoàn toàn có thể suy nghĩ khác và đưa ra ý kiến riêng của mình..
- Tìm hiểu văn học sử Trung Quốc, chúng tôi thấy:.
- Thôi Hạo thuộc thế hệ thi nhân Thịnh Đường, khi luật thi đã bước vào giai đoạn thành thục, do vậy khó có thể nói thơ ông ở giai đoạn “chưa định hình hóa”..
- Thứ hai, những ghi chép về tiểu sử cho biết, Thôi Hạo từng thi đỗ tiến sĩ năm 723, tức ông tham gia khoa cử còn trước cả Đỗ Phủ (mãi tới năm 735, Đỗ Phủ mới tham gia thi lần đầu).
- Sau khi thi đỗ tiến sĩ, Thôi Hạo tham chính, giữ các chức Thái bộc tự thừa, Tư huân viên ngoại lang và trong thời gian khá dài sống ở Lạc Dương, Tràng An - hai kinh đô lớn - tất nhiên là trung tâm chính trị văn hóa của Trung Quốc thời cổ đại.
- Thôi Hạo không chỉ am hiểu luật thi, mà còn cảm nhận được hết khả năng và giới hạn của văn thể này.
- Với bối cảnh thời đại mà “quy mô và ảnh hưởng của cải cách văn phong văn thể, chưa có bất kỳ một thời kỳ nào trước đó sánh nổi”(14) và với tính cách phóng khoáng của mình, trong ông hẳn đã xuất hiện dự định cách tân luật thi.
- Logic đó giúp chúng ta nhất trí một điều: Thôi Hạo chẳng có lý do gì lại đi trước tác một bài thất ngôn luật thi “chưa định hình”..
- Thứ ba, kết quả của những nghiên cứu nội quan do chúng tôi thực hiện ở phần viết trước cũng cho thấy(15), qua chủ đề tư tưởng của HHL, chúng ta hoàn toàn có lý do để tin rằng, Thôi Hạo đã trước tác bài thơ này vào những năm cuối đời, khi triều đại nhà Đường không còn thịnh trị như trước nữa, khi tầng lớp trí thức như ông buộc phải “đăng lâu vọng viễn” ngẫm cổ suy kim, chiêm nghiệm thế sự thịnh suy, xót đau nhân sinh còn mất, cũng như buộc phải lựa chọn phương thức ứng xử nhân sinh bất đắc dĩ của mình (ẩn dật) nhằm giữ gìn nhân cách cao đẹp và truy cầu những giá trị nhân sinh cao cả.
- Hơn nữa, thông qua tư duy thơ đạt trình độ siêu việt, nghệ thuật “hứng tượng” lung linh, nghệ thuật luật thi điêu luyện, chúng ta càng có lý do để xếp HHL của Thôi Hạo không chỉ thuộc phạm trù Thịnh Đường, mà còn là một trong số rất ít trước tác có những sáng tạo độc đáo, đại diện cho thành tựu cao nhất của thi ca đời Đường.
- HHL là bài luật thi theo đúng nghĩa tuyệt nhất của từ này, chứ hoàn toàn không phải một tác phẩm “nửa cổ nửa luật” hay “cổ phong nhập luật” xuất hiện đầu đời Đường(16)..
- LOGIC NÀO HÌNH THÀNH DẠNG THỨC LUẬT THI NHƯ HOÀNG HẠC LÂU CỦA THÔI HẠO?.
- Chính nhờ điều đó mà Thôi Hạo đã có những thành công vang dội ngay trên địa hạt rất chính thống này.
- Chúng tôi nghĩ rằng, Thôi Hạo trước hết cần phải được ghi nhận ở phương diện này..
- Vấn đề tiếp theo chúng ta cần làm rõ chính là: logic nào dẫn dắt Thôi Hạo đến với những sáng tạo thể hiện ở phần đầu của bài luật thi?.
- Kết quả nghiên cứu văn học sử ở Trung Quốc gần đây, đặc biệt là công trình do Giáo sư Viên Hành Bái tổng chủ biên cũng như các công trình nghiên cứu chuyên sâu về thơ Đường (chẳng hạn Đường thi học dẫn luận của học giả Trung Quốc Trần Bá Hải – Sđd) đã giúp chúng tôi tìm hiểu vấn đề này.
- Bài thơ vốn thuộc đoạn cuối của Đằng Vương các tự, chứ không phải là trước tác độc lập.
- Tuy nhiên, số chữ và số dòng khiến chúng ta khi liếc qua thấy nó giống hệt bài thất ngôn luật thi.
- Bài thơ 7 chữ 8 dòng này đang dần lột xác để trở thành bài luật thi.
- Những dạng thức này, chẳng bao lâu sau sẽ biến đổi bằng trắc để trở thành một đối liên mẫu mực của bài luật thi.
- Chúng thể hiện rất rõ quá trình luật hóa, song hình thức thì vẫn chưa định hình để trở thành bài luật thi đúng nghĩa..
- Trong khi đó, những phân tích của chúng tôi ở bài viết trước về nghệ thuật sử dụng chất liệu, nhất là chất liệu huyền thoại ở bốn dòng thơ đầu và chất liệu thiên nhiên ở liên thơ thứ ba.
- hay những phân tích về hiệu quả thẩm mỹ của liên thơ thứ hai cho thấy, HHL của Thôi Hạo thuộc thời kỳ phát triển lên đến đỉnh cao của thơ ca Thịnh Đường.
- Nếu như cổ phong đầu đời Đường diễn ra quá trình luật hóa mạnh mẽ, thì HHL của Thôi Hạo không những đã hoàn tất quá trình đó đến mức thành thục, mà còn là một trong những tín hiệu đầu tiên của quá trình phản luật hóa.
- Như chúng ta đều biết, về thể tài, HHL của Thôi Hạo thuộc tiểu loại thơ đăng lãm(17).
- Để thực hiện việc cách tân bốn dòng thơ đầu, Thôi Hạo đã lựa chọn một cách thức mới, đó là thay thế mô thức tả cảnh / trữ tình bằng mô thức tự sự / trữ tình.
- Đây có phải là sáng tạo của riêng Thôi Hạo? Tìm hiểu chất liệu và “mẫu gốc” của mô thức mới mẻ này, chúng tôi được biết, trước khi Thôi Hạo “đăng lâu” đã có truyền thuyết người tiên cưỡi hạc vàng, còn khi ông đặt bút viết thì kiểu câu dùng liền ba chữ hoàng hạc đã có trong nhạc phủ Nam triều(18).
- Như vậy, sáng tạo của Thôi Hạo là kế thừa truyền thống.
- Thôi Hạo đã tìm được sự gợi ý từ những sáng tạo của tiền nhân.
- Lý Bạch sau khi đọc biết ngay đó là bài thơ vô tiền khoáng hậu, đành chấp nhận gác bút..
- Một câu hỏi tiếp: tại sao cũng kế thừa tiền nhân (không chỉ Thẩm Thuyên Kỳ, sau Thôi Hạo còn có Lý Bạch cũng sử dụng mô thức này), song chỉ có HHL của Thôi Hạo lưu danh thiên cổ?.
- Cùng với những phân tích ở bài viết trước, chúng tôi xin nhấn mạnh thêm, chính Thôi Hạo, qua mô thức tự sự / trữ tình được thực hiện bởi những âm thanh được lạ hóa đến mức cực đoan ở liên thứ hai đã thổi hồn vía Thịnh Đường vào câu chuyện truyền thuyết, khiến HHL của ông vượt qua tiền nhân và làm bó tay tất thảy thi nhân đời sau, không ai - kể cả Lý Bạch - có thể làm hay hơn được..
- Nói đến luật thi Thịnh Đường, phải kể đến Đỗ Phủ.
- Những sáng tạo mới mẻ về luật thi đã đem lại cho Đỗ Phủ vinh dự lớn lao, trở thành tập đại thành của thơ ca Thịnh Đường, được đời sau phong danh hiệu Thi Thánh.
- Một số tác phẩm luật thi của ông như Đăng cao, Thu hứng bát thủ đã trở thành những đỉnh cao của thể loại này về cả quy mô và sự đa dạng.
- Thế nhưng, những sáng tạo luật thi của Đỗ Phủ đi theo con đường chính cách, do vậy trước nay chỉ có những lời trầm trồ khẳng định, chứ ít có những ý kiến trái chiều.
- Thôi Hạo thì khác.
- Sáng tạo luật thi của ông không chỉ xuất hiện ở thời kỳ đầu, mà còn thuộc loại độc nhất vô nhị.
- Nói tóm lại, với những tìm tòi và kế thừa tinh hoa truyền thống, với những sáng tạo vượt bậc đưa luật thi lên tầm cao mới, đặc biệt hơn, với những cách tân táo bạo nhằm cải biến luật thi, phá vỡ khuôn khổ chật hẹp, mở rộng chiều kích của thể loại này, Thôi Hạo xứng đáng được coi là nhà cách tân luật thi hàng đầu thuộc thời kỳ thứ nhất của “cải cách văn phong văn thể” ở đời Đường.
- Cống hiến của Thôi Hạo cho luật thi vì thế thuộc loại tiên phong, vượt tầm thời đại.
- HHL của Thôi Hạo quả đã từng tạo ra hố ngăn cách giữa cổ nhân và kim nhân, song tác phẩm này cũng sẽ lại chính là nhịp cầu xóa đi khoảng cách, kết nối truyền thống và hiện đại, dân tộc và quốc tế..
- Hoài cổ, thương kim, tư hương.
- Dường như khi nói về những “nỗi niềm không thể nói thành lời” (chữ in nghiêng), tác giả đã chuyển từ bình giảng bài thơ sang “trữ tình ngoại đề”..
- (6) Phạm Luận: Về lối thơ trong bài Hoàng Hạc lâu của Thôi Hiệu, in trên Tạp chí Nghiên cứu Văn học, chuyên mục Văn học và Nhà trường, số 10/2008, tr.129-133.
- (7) Nghiêm Vũ trong Thương Lãng thi thoại bình rằng: “Thơ thất ngôn luật thi của người đời Đường nên chọn Hoàng Hạc lâu của Thôi Hạo làm đệ nhất”, còn Kim Thánh Thán thì viết: “Bài Hoàng Hạc lâu với bút pháp tuyệt kì quả thật là một tác phẩm đệ nhất cổ kim trong thơ Đường luật”.
- hiệu điểm, Nhạc Lộc Thư Xã, 1998) và Hành Đường Thoái Sĩ trong Đường thi tam bách thủ (bản Ly Giang xuất bản xã, xuất bản lần thứ 2 năm 1995, in lần thứ 5 năm 1999), đều xếp HHL của Thôi Hạo vào mục “thất ngôn luật thi”..
- (15) Xin xem bài viết trước của chúng tôi trên Tạp chí Nghiên cứu văn học, mục “Văn học và Nhà trường”, số 11/2009, tr.
- (16) Tác phẩm “nửa cổ nửa luật” như cách gọi của Giáo sư Vương Lực ứng với các tác phẩm “cổ phong nhập luật” xuất hiện đầu đời Đường, chẳng hạn: Đằng Vương các của Vương Bột, Vọng Nhạc của Đỗ Phủ v.v..
- (17) Chúng tôi sử dụng khái niệm này theo học giả Trung Quốc khi họ tiến hành phân loại thơ của Lý Bạch.
- (18) Mã Mậu Nguyên khi chú giải HHL cho ta biết: “Bốn câu đầu bài thơ này dùng ba chữ hoàng hạc liên tiếp nhau, kiểu câu này bắt đầu từ nhạc phủ Nam triều, người đời Đường đưa nó vào luật thi, hình thành một loại biệt điệu của thất ngôn luật thi”