« Home « Kết quả tìm kiếm

Đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước: Luận án TS. Triết học: 62 22 85 01


Tóm tắt Xem thử

- Tộc người luôn là một nội dung chính trị nhạy cảm, phức tạp liên quan đến tất cả các quốc gia trên thế giới.
- Các đảng, nhà nước muốn thực hiện tốt vai trò quản lý xã hội, thực hiện quyền lực chính trị của mình đòi hỏi phải nắm vững đặc điểm tộc người, giải quyết tốt quan hệ tộc người phù hợp với thực tiễn đất nước..
- Một trong những thách thức đó là sự bùng nổ mâu thuẫn, xung đột tộc người.
- Mặc dù, các quốc gia và những tổ chức xã hội dành nhiều nỗ lực để cải thiện vấn đề tộc người, nhưng tình trạng mâu thuẫn, xung đột này vẫn đang diễn ra gay gắt, thậm chí, phức tạp hơn bởi sự pha tạp trong đó cả những vấn đề kinh tế, chính trị, văn hóa, tôn giáo,… Điển hình cho các cuộc xung đột tộc người – sắc tộc là ở: Liên Xô cũ, Liên bang Nam Tư, Kôsôvô,… và các cuộc đấu tranh ly khai ở Chesnhia, xứ Bas của Tây Ban Nha hay tỉnh A xê ở Indonexia,… Các cuộc xung đột này vừa là nguyên nhân, vừa là hậu quả của sự tan rã của không ít các nhà nước liên bang đa tộc người..
- Bùng nổ vấn đề dân tộc trong lịch sử thường kéo theo những làn sóng ý thức tộc người, sự trỗi dậy của chủ nghĩa dân tộc, do sự khác nhau về lối sống, tâm lý, tập quán, trình độ phát triển kinh tế - xã hội,… Nó đặt ra cho bất cứ một đảng chính trị, một nhà nước nào trong quốc gia đa tộc người, nếu không xuất phát từ tình hình, đặc điểm tộc người thì cũng không có khả năng giải quyết được những vấn đề mới nảy sinh trong quan hệ giữa các tộc người.
- Do vậy, trong một quốc gia có nhiều thành phần tộc người, đặc điểm tộc người như là một căn cứ quan trọng để xây dựng và thực hiện những chính sách phát triển kinh tế, văn hóa, xã hội,… của đất nước..
- Việt Nam là một quốc gia đa tộc người, gồm 54 tộc người cùng chung sống.
- Tuy có tập quán, tâm lý, trình độ phát triển khác nhau, nhưng các tộc người đã đoàn kết gắn bó, hợp tác trong suốt quá trình dựng nước và giữ nước, tạo nên một diện mạo chung của dân tộc Việt Nam - thống nhất trong đa dạng của các quan hệ tộc người..
- Ngay từ thời phong kiến, cha ông ta đặt vấn đề tộc người như một nhiệm vụ then chốt trong hoạt động của quốc gia đa tộc người, giải quyết quan hệ tộc người luôn gắn liền với các điều kiện cụ thể, không thoát ly đặc điểm tộc người.
- Kinh tế thị trường tạo điều kiện phát huy những tiềm năng phát triển của các tộc người, là cơ hội lớn để các tộc người tham dự vào đời sống quốc tế, đồng thời cũng đặt ra những thử thách không nhỏ trong quá trình hội nhập và phát triển của mỗi tộc người..
- Đảng và Nhà nước Việt Nam trong xây dựng chiến lược phát triển đất nước luôn xuất phát từ tình hình thực tiễn, đặc điểm của các tộc người đề ra những chính sách phù hợp với thực tiễn, vì mục tiêu dân giàu, nước mạnh, dân chủ, công bằng, văn minh.
- Bên cạnh đó, các tộc người ở nước ta với những thang bậc lịch sử, tâm lý, phong tục, tập quán, trình độ phát triển kinh tế - xã hội không giống nhau, nhưng lại cùng chung vận mệnh lịch sử, có quan hệ chặt chẽ với nhau trong quá trình lao động sản xuất và đấu tranh chống kẻ thù xâm lược, bảo vệ Tổ quốc..
- Hiểu rõ nguồn gốc, hoàn cảnh lịch sử, đời sống kinh tế, văn hóa, chính trị, xã hội,… của các tộc người là cơ sở quan trọng đề ra chính sách giải quyết tốt những nhiệm vụ đặt ra của công cuộc đổi mới đất nước hiện nay..
- Đó là lý do mà tác giả chọn vấn đề: “Đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước” làm đề tài luận án của mình..
- Mục đích nghiên cứu: Trên cơ sở phân tích làm rõ biểu hiện và ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước, luận án đề xuất một số giải pháp điều tiết những ảnh hưởng đó đáp ứng yêu cầu công cuộc đổi mới đất nước hiện nay..
- Phân tích các công trình nghiên cứu cơ bản liên quan đến nội dung luận án và chỉ ra một số khái niệm như: tộc người, đặc điểm tộc người, đặc điểm các tộc người ở Việt Nam..
- Phân tích một số yếu tố quy định sự hình thành đặc điểm các tộc người ở Việt Nam và những vấn đề đặt ra từ sự tác động của công cuộc đổi mới đất nước..
- Phân tích biểu hiện và ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước..
- Đề xuất một số giải pháp chủ yếu nhằm điều tiết những ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay..
- Đối tượng nghiên cứu: Luận án nghiên cứu biểu hiện và ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước..
- Phạm vi nghiên cứu: Luận án nghiên cứu đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước (từ năm 1986 đến nay)..
- Cơ sở lý luận: Luận án dựa trên cơ sở lý luận của chủ nghĩa Mác – Lênin, tư tưởng Hồ Chí Minh và quan điểm của Đảng, các chính sách của Nhà nước Việt Nam về vấn đề tộc người và liên quan.
- Luận án phân tích biểu hiện và ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước..
- Luận án đề xuất một số giải pháp điều tiết những ảnh hưởng của đặc điểm các tộc người ở Việt Nam trong công cuộc đổi mới đất nước hiện nay..
- Luận án có thể góp phần làm luận cứ khoa học cho đường lối, chính sách của Đảng và Nhà nước tác động đến vấn đề tộc người ở Việt Nam hiện nay..
- Kết quả của luận án có thể dùng làm tài liệu tham khảo trong nghiên cứu và giảng dạy những môn học có liên quan đến vấn đề tộc người ở Việt Nam..
- Những công trình nghiên cứu về khái niệm tộc người và đặc điểm tộc người.
- Khái niệm tộc người có từ rất sớm trong lịch sử.
- "đám đông một nhóm người bộ lạc bộ lạc ngoại bang tộc người",....
- (tộc người học lý luận.
- Giai đoạn này, trong hoạt động thực tiễn, các nhà khoa học chủ yếu sử dụng các thuật ngữ "chủng tộc bộ lạc tộc người"..
- với ý nghĩa là "tộc người".
- Sau này, trong giới nghiên cứu, thuật ngữ “ethnie” được dùng phổ biến hơn để chỉ các tộc người.
- và được A.Fouillee tiếp tục sử dụng trong công trình "Tâm lý tộc người học Pháp".
- đến năm 1920, trong "Bản tin và kỷ yếu của hội Nhân chủng học Paris", học giả Pháp F.Regnault mới tiến thêm một bước trong việc xác lập khái niệm "ethnie", khi đòi hỏi cần phải có sự phân biệt tộc người ngôn ngữ với chủng tộc hình thể..
- và chỉ đến G.Montadon với công trình "Tộc người Pháp” (1935) thì thuật ngữ "ethnie".
- Theo đó, các nhà tộc người học và chính quyền thuộc địa Pháp ở hải ngoại thấy rằng, việc sử dụng thuật ngữ "ethnie".
- tiếp tục trở nên có uy tín và sức nặng khoa học trong công trình "Châu Âu của các tộc người".
- Ở Việt Nam, trong ngôn ngữ sử dụng hàng ngày, trên những phương tiện thông tin đại chúng, các tài liệu sách báo chính trị - xã hội và trong các tài liệu và công trình khoa học chuyên ngành, thuật ngữ "tộc người".
- Thay vào đó, thuật ngữ "tộc người".
- vừa dùng để chỉ các tộc người trong 54 tộc người ở Việt Nam (tộc người Kinh, tộc người Thái, tộc người Ba Na, tộc người Ê Đê.
- vừa được dùng để chỉ một quốc gia như: tộc người Việt Nam, tộc người Pháp, tộc người Mỹ,....
- và "tộc người".
- mà vừa chỉ "dân tộc", vừa chỉ "tộc người".
- Hai cuộc hội thảo về xác định thành phần dân tộc (tộc người) ở Việt Nam năm 1973 đã thống nhất lấy “dân tộc” (tộc người) làm đơn vị cơ bản trong xác định các thành phần tộc người.
- Tạp chí dân tộc học".
- Vấn đề xác định thành phần các dân tộc thiểu số ở miền Bắc Việt Nam".
- được sử dụng một cách chính thức để chỉ 54 tộc người ở Việt Nam..
- khái niệm "tộc người".
- và "tộc người", nhưng trong tình huống cụ thể, vẫn sử dụng thuật ngữ "dân tộc".
- để chỉ các tộc người..
- Trong công trình: "Cộng đồng Quốc gia dân tộc Việt Nam".
- (2002), Đặng Nghiêm Vạn đã chỉ ra thế nào là một dân tộc và thế nào là một tộc người..
- Tác giả khẳng định, không thể lẫn cộng đồng tộc người với cộng đồng dân tộc, bởi lẽ dân tộc “phải có hai yếu tố cơ bản: (1) dựa trên một lãnh thổ, có một biên giới được xác định, (2) phải thành lập một nhà nước được thế giới công nhận” [93, 33].
- Qua đó, tác giả đưa ra định nghĩa về dân tộc và tộc người..
- Trong công trình, tác giả cũng đưa ra định nghĩa về quốc gia dân tộc và tộc người [xem .
- Bùi Xuân Đính (2012) trong cuốn: "Các tộc người ở Việt Nam".
- và "tộc người".
- Tuy nhiên, tác giả cho rằng, việc dùng khái niệm "tộc người".
- vừa để chỉ dân tộc quốc gia (dân tộc Việt Nam), lại vừa để chỉ một tộc người cụ thể (tộc người Tày, Nùng.
- Như vậy, hầu hết các nhà nghiên cứu khi bàn đến định nghĩa dân tộc đều thống nhất, dân tộc có hai cách hiểu: dân tộc – quốc gia và dân tộc – tộc người..
- Tiếp thu các quan điểm ở những công trình nghiên cứu nêu trên, tác giả chỉ ra sự khác nhau giữa hai thuật ngữ “dân tộc” và “tộc người”.
- Trong luận án, tác giả bàn đến vấn đề dân tộc theo nghĩa hẹp: tộc người (ethnie)..
- Xét đến cùng, sự khác biệt và phức tạp của vấn đề định nghĩa tộc người lại nằm ở việc xác định các tiêu chí cấu thành đặc điểm tộc người.
- Ở Việt Nam, những năm 60 của thế kỷ XX, các nhà nghiên cứu đã quan tâm đến việc xác định các tiêu chí cấu thành đặc điểm các tộc người.
- Trong thập niên này, một số công trình viết về các tộc người Việt Nam và nhận diện đặc điểm của các tộc người như: “Các dân tộc nguồn gốc Nam Á ở miền Bắc Việt Nam”.
- Năm 1973, sau một quá trình điều tra, nghiên cứu và chuẩn bị, tại Hà Nội đã liên tiếp diễn ra hai hội thảo khoa học (trong tháng 6 và tháng 11) về tiêu chí xác định đặc điểm các tộc người.
- Thống nhất lấy dân tộc (tộc người) làm đơn vị cơ bản trong việc xác định thành phần các tộc người (tộc người) ở Việt Nam..
- Tuy nhiên, từ năm 1979 đến nay, cả trong nghiên cứu lý luận cũng như trong đời sống thực tiễn của các tộc người ở Việt Nam đã có nhiều thay đổi..
- Trong giáo trình: “Dân tộc người đại cương” xuất bản năm 1996 của Ngô Văn Lệ và Nguyễn Văn Tiệp đã đưa ra bốn tiêu chí cấu thành đặc điểm chủ yếu của tộc người là: ngôn ngữ tộc người, lãnh thổ tộc người, cơ sở kinh tế tộc người, sinh hoạt văn hóa tộc người và ý thức tộc người..
- Còn Phan Hữu Dật (2002) tại Hội thảo “Bàn về tiêu chí xác định lại thành phần một số dân tộc Việt Nam” cho rằng, ba tiêu chí ngôn ngữ, văn hóa và ý thức tự giác tộc người, thể hiện trong tên tự gọi cần tiếp tục được duy trì và áp dụng trong việc xác định thành phần tộc người ở nước ta.
- Một số học giả khác như Hoàng Lương, Nguyễn Văn Mạnh, Lê Ngọc Thắng, Cao Thế Trình,… trong khi khẳng định giá trị của ba tiêu chí cấu thành đặc điểm tộc người được đưa ra từ những năm 70 của thế kỷ XX, đã đề nghị cần điều chỉnh hoặc bổ sung thêm một số tiêu chí khác..
- Chẳng hạn, Hoàng Lương đưa ra năm tiêu chí xác định đặc điểm cấu thành của tộc người:.
- “1- Tiêu chí ý thức tự giác tộc người 2- Tiêu chí ngôn ngữ tộc người.
- 3- Tiêu chí đặc trưng sinh hoạt văn hóa truyền thống 4- Tiêu chí lãnh thổ tộc người (chủ yếu là thời cổ đại) 5- Tiêu chí cơ sở kinh tế nguyên thủy.
- Trong năm tiêu chí trên, Hoàng Lương coi ý thức tự giác tộc người là tiêu chí bao trùm nhất.
- Ông nhấn mạnh: “Bốn tiêu chí trên đây không phải bắt đầu và căn cứ vào tiêu chí ý thức tự giác tộc người.
- Nói khác đi, ý thức tự giác tộc người sẽ là tiêu chí bao trùm và làm cơ sở cho việc xem xét các tiêu chí còn lại..
- Thực ra, khi một tộc người nào đó đã được sinh ra và tồn tại trong trong thời gian thì tộc người đó cũng đã tự khẳng định được sức sống của mình.
- Ngược lại với Hoàng Lương, Nguyễn Văn Mạnh lại cho rằng, tiêu chí ý thức tự giác tộc người chỉ là tiêu chí tham khảo, mà “1.
- Tiêu chí văn hóa… là hai tiêu chí cơ bản có tính quyết định cho sự tồn tại của các tộc người..
- Ngoài ra chúng ta còn chú ý đến các tiêu chí: ý thức tự giác tộc người, lãnh thổ tộc người,… tộc người và chế độ nội hôn” [81, 76]..
- Trong khi đó, Lê Ngọc Thắng đưa ra năm tiêu chí cấu thành đặc điểm tộc người là:.
- Có bản sắc văn hóa riêng để phân biệt với tộc người khác.
- Phân biệt dân tộc và tộc người, chỉ ra những tiêu chí để nhận diện đặc điểm tộc người là vấn đề được nhiều nhà nghiên cứu quan tâm đến.
- Những công trình nêu trên đã đưa ra những nhận định hợp lý về sự khác nhau giữa dân tộc và tộc người và được sự ủng hộ, thống nhất của giới nghiên cứu khoa học.
- Bàn về tiêu chí nhận diện đặc điểm các tộc người, đặc biệt là tiêu chí nhận diện đặc điểm các tộc người ở Việt Nam có khá nhiều ý kiến, quan điểm khác nhau.
- Tuy nhiên, các nhà nghiên cứu đều nhận định, những tiêu chí cơ bản cấu thành đặc điểm các tộc người bao gồm: ngôn ngữ, lịch sử tộc người, cơ sở kinh tế của tộc người, sinh hoạt văn hóa và ý thức tự giác tộc người.
- Bùi Xuân Đính (2012), Các tộc người ở Việt Nam, NXB Thời đại..
- Phan Hữu Dật, Ngô Đức Thịnh, Lê Ngọc Thắng, Nguyễn Xuân Độ (Ban chủ nhiệm đề tài) (1998), Sắc thái văn hóa địa phương và tộc người trong chiến lược phát triển đất nước, Chương trình nghiên cứu khoa học công nghệ cấp Nhà nước KX-06 “Văn hóa, văn minh vì sự phát triển và tiến bộ xã hội”, NXB Khoa học xã hội..
- Khổng Diễn (1995), Dân số và dân số tộc người ở Việt Nam, NXB Khoa học xã hội..
- Học viện Chính trị Quốc gia Hồ Chí Minh (2001), Tập bài giảng lý luận dân tộc và chính sách dân tộc, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- Ngô Văn Lệ (2004), Tộc người và văn hóa tộc người, NXB Đại học Quốc gia thành phố Hồ Chí Minh..
- Đậu Tuấn Nam (chủ biên) (2010), Vấn đề dân tộc và quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- Hoàng Đức Nghi (2001), Về công tác dân tộc trong 10 năm đổi mới NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- Trần Quang Nhiếp (1997), Phát triển quan hệ dân tộc ở Việt Nam hiện nay, NXB Văn hóa dân tộc..
- Nguyễn Lâm Thành (2014), Chính sách phát triển vùng dân tộc thiểu số phía Bắc Việt Nam hiện nay, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- Lê Ngọc Thắng (2005), Một số vấn đề dân tộc và phát triển, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- Uỷ ban dân tộc (2002), Miền núi Việt Nam - Thành tựu và phát triển những năm đổi mới, NXB Chính trị quốc gia, Hà Nội..
- Đặng Nghiêm Vạn (2003), Cộng đồng quốc gia dân tộc Việt Nam, NXB Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh.