« Home « Kết quả tìm kiếm

Đại học Đông Dương trên hành trình khai phóng của dân tộc Việt Nam thời cận đại


Tóm tắt Xem thử

- TRÊN HÀNH TRÌNH KHAI PHÓNG CỦA DÂN TỘC VIỆT NAM THỜI CẬN ĐẠI.
- Phạm Hồng Tung VNU-IVIDES Nửa sau thế kỷ 19, cùng với nhân dân ở nhiều nước trong khu vực Đông Á và Đông Nam Á, dân tộc Việt Nam phải đối mặt với cuộc xâm lăng của thực dân phương Tây.
- Mặc dù đã chiến đấu vô cùng dũng cảm và bền bỉ, nhưng cuối cùng Việt Nam cũng bị mất chủ quyền vào tay thực dân Pháp, dân Việt Nam trở thành “vong quốc nô”..
- Trong bối cảnh đó, những năm đầu thế kỷ 20 đã xuất hiện một thế hệ lãnh đạo mới trong phong trào yêu nước Việt Nam.
- Những người này, tương tự như các thủ lĩnh của phong trào Cần Vương trước kia, được người đương thời gọi là.
- Khi đó, ảnh hưởng của tư tưởng chính trị phương Tây, nhất là tư tưởng cách mạng dân chủ tư sản Pháp và thuyết Đácuyn xã hội, đã được truyền bá vào Việt Nam thông qua con đường “Tân thư”, “Tân báo”, làm thay đổi mạnh mẽ nhãn quan và thực sự đã góp phần nâng tư duy của các nhà Nho yêu nước Việt Nam lên một tầm cao mới.
- Nguyên nhân cội nguồn của tình trạng trên chính là nền giáo dục Nho giáo vong bản, sai lầm.
- 4 Phan Bội Châu, Nam Hải bô thần ca, in trong: Cục Lưu trữ Nhà nước Việt Nam và Viện Viễn Đông bác cổ Pháp, Văn thơ Đông Kinh Nghĩa thục, Nxb.
- Cần phải nhớ rằng: để một dân tộc mà từ trước đó nhiều thế kỷ đã từng kiêu hãnh tự xưng là “một nước văn hiến” 8 giờ đây buộc phải phản tỉnh, tự mình chỉ ra những cái yếu kém, sai lầm, hủ bại trong nền học vấn của mình, quả là không dễ dàng gì.
- Tự phê phán để kiên quyết sửa mình và dẫn đạo cho dân tộc tiến lên theo phương châm: "khai dân trí, chấn dân khí, hậu dân sinh".
- 7 Dẫn lại theo: Trần Quốc Vượng, “Nho giáo và văn hóa Việt Nam”, in trong: Vũ Khiêu (CB), Nho giáo xưa và nay, Nxb.
- Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1991, tr.
- Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1998, tr.
- 9 Văn minh tân học sách, in trong: Thơ văn yêu nước và cách mạng đầu thế kỷ XX Nxb.
- yếu hèn lạc hậu do giáo dục sai lầm.
- Đó chính là ý chí, là đại nghĩa dân tộc của phong trào yêu nước Việt Nam những năm đầu thế kỷ 20.
- Vì mục tiêu Canh tân và Cứu quốc, trong bể học mênh mông, các cụ đã vượt qua mọi định kiến, có thể học ở những người "đồng văn, đồng chủng", nhưng cũng sẵn sàng học những cái hay từ chính kẻ thù đang nô dịch dân tộc mình.
- Đây chính là động lực đã đẻ ra cuộc vận động duy tân sôi nổi, phong phú, có lẽ khởi đầu ở Quảng Nam vào khoảng rồi lan nhanh ra khắp cả nước với Phong trào Đông Du do Phan Bội Châu và Cường Để lãnh đạo và phong trào Nghĩa thục với nhà trường Đông Kinh nghĩa thục ở Hà Nội, gắn liền với tên tuổi của Phan Châu Trinh, Lương Văn Can, Nguyễn Quyền vv....
- Đương nhiên, Paul Beau và chính quyền Pháp - ở cả “mẫu quốc” và Đông Dương – hoàn toàn không đặt cho việc xây dựng, phát triển hệ thống giáo dục thuộc địa nói chung và Đại học Đông Dương (ĐHĐD) mục tiêu là nhằm đáp ứng nguyện vọng học tập để khai dân trí, để chấn dân khí và cuối cùng là để canh tân đất nước và khôi phục độc lập của dân tộc Việt Nam.
- Đòi hỏi ở nhà nước thực dân, bất kỳ thực dân nào, ở đầu thế kỷ 20 một điều như trên, thực chất là đòi hỏi điều không thể và không tưởng..
- 10 Quảng học vấn, in trong: Cục Lưu trữ Nhà nước Việt Nam và Viện Viễn Đông bác cổ Pháp, Văn thơ Đông Kinh Nghĩa thục, sđd, tr.
- 4 Tuy nhiên, gán cho Paul Beau và chính quyền thuộc địa Pháp cái mục tiêu lập ra trường học, bao gồm cả ĐHĐD, là nhằm tạo ra cơ hội học tập chỉ dành riêng cho con em các giai cấp bóc lột, nhằm đào tạo tay sai cho thực dân Pháp thì cũng không đúng.
- Khảo sát hồ sơ sinh viên được tuyển sinh vào ĐHĐD trong nhiều khóa, hiện đang được lưu giữa tại Trung tâm Lưu trữ quốc gia I, chúng tôi thấy nhà trường, với sự hỗ trợ của mật thám (Sûréte) và chính quyền địa phương, đã điều tra và nắm rất chắc điều kiện kinh tế, xã hội, thái độ của gia đình ứng viên và hạnh kiểm của ứng viên.
- Qua thống kê sơ bộ điều kiện kinh tế của sinh viên được tuyển vào trong năm 1927 (có thể xem như một trong những năm đặc biệt, sau các làn sóng đấu tranh của sinh viên, học sinh nhằm phản đối việc kết án tử hình đối với cụ Phan Bội Châu và để tang cụ Phan Châu Trinh), số lượng sinh viên có hoàn cảnh gia đình từ "khá giả".
- Trong khi đó, số sinh viên có hoàn cảnh từ "rất nghèo khó".
- Nhiều sinh viên có hoàn cảnh khó khăn (chẳng hạn như Nguyễn Thái Học, quê ở làng Thổ Tang, Vĩnh Tường).
- Tuy nhiên, số sinh viên có hoàn cảnh xuất thân "rất nghèo khó".
- Sinh viên ĐHĐD, những người học giỏi - như Nguyễn An Ninh, thì được nhận học bổng của Chính phủ thuộc địa, người có gia cảnh khó khăn có thể được nhận trợ cấp của Chính phủ..
- Còn về định kiến, cho rằng nhà trường thuộc địa, nhất là ĐHĐD chủ yếu được lập ra để đào tạo tay sai cho chính quyền thực dân Pháp, chúng tôi cho rằng cần xem xét lại vấn đề này một cách hết sức cẩn trọng, tiếp cận vấn đề từ nhiều phương diện khác nhau..
- Thứ nhất, chắc chắn không thể đòi hỏi chính phủ thuộc địa Pháp lập ra trường học với mục đích là đào tạo các chiến sĩ cách mạng hay các nhà lãnh đạo của phong trào chống thực dân..
- 5 Thứ hai, cũng không thể lên án chính phủ thuộc địa Pháp ở Đông Dương khi họ công khai tuyên bố mục đích phát triển hệ thống giáo dục thuộc địa, trong đó có ĐHĐD, là nhằm truyền bá “những kiến thức và phương pháp châu Âu” nhằm đào tạo đội ngũ nhân viên phục vụ công cuộc cai trị và phát triển thuộc địa.
- Đây là thực tế, là nguyên tắc của bất kỳ chính phủ nào khi xây dựng hệ thống giáo dục của mình..
- Vì vậy, chúng tôi cho rằng cần phải tập trung đánh giá trên hai phương diện: Nội dung giáo dục và thái độ của sinh viên ĐHĐD đối với sự nghiệp Canh tân và Cứu quốc của nhân dân Việt Nam..
- Về thái độ của sinh viên ĐHĐD (kể cả lúc còn đang học và sau khi đã tốt nghiệp) đối với sự nghiệp đấu tranh nhằm giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội và canh tân đất nước, có thể thấy rõ và cần thiết phải nhấn mạnh một số điểm sau:.
- Cho đến năm 1945, ước tính đã có khoảng trên dưới 3000 sinh viên học tập và tốt nghiệp ĐHĐD.
- Trong số này, phần lớn làm việc tại các cơ sở giáo dục (dạy học) hoặc các cơ quan nghiên cứu khoa học.
- Với những người này, kể cả những người làm việc trong bộ máy chính quyền thuộc địa, hoàn toàn không thể bị gán cho tội làm “tay sai” cho thực dân Pháp một cách dễ dàng.
- Qua tìm hiểu, chúng tôi chưa phát hiện ra trường hợp nào là sinh viên hay cựu sinh viên của ĐHĐD thực sự rắp tâm làm tay sai cho thực dân Pháp, tham gia tích cực vào việc chống phá, đàn áp các phong trào đấu tranh yêu nước, cách mạng hay các cuộc vận động văn hóa, xã hội tích cực của nhân dân Việt Nam.
- Lịch sử cận đại Việt Nam đã chỉ ra những sự thực hoàn toàn khác.
- Nhiều lớp sinh viên ĐHĐD đã hăng hái tham gia các phong trào yêu nước và cách.
- 14 Sự thật là trong lịch sử cận đại Việt Nam có không ít người Việt Nam đã cam tâm làm tay sai cho thực dân Pháp, tích cực tham gia chống phá các phong trào yêu nước.
- Phần lớn những người này đều vốn là quan lại nhà Nguyễn, sau theo thực dân Pháp.
- Vốn là sinh viên của ĐHĐD, chúng tôi mới chỉ phát hiện Ngô Đức Trì, nguyên là UVTW Đảng CSĐD, sau khi bị bắt, do không chịu nổi cực hình tra tấn đã phản bội, khai báo khiến cho Tổng bí thư Trần Phú và một số đồng chí bị bắt..
- Với trái tim yêu nước nồng nàn cùng nền tảng tri thức thâu nhận được trong quá trình học tập, họ đã trở thành một trong những nguồn chính cung cấp những nhà lãnh đạo tài ba kiệt xuất, kiên trung cho các phong trào yêu nước và cách mạng ở Việt Nam cận đại.
- Sinh viên ĐHĐD cũng tham gia và đóng vai trò quan trọng trong nhiều phong trào đấu tranh yêu nước và cách mạng.
- Tiêu biểu nhất là cao trào đấu trong trong những năm trong đó sinh viên, học sinh chính là những người đã khởi xướng và đi tiên phong trong những cuộc vận động yêu nước sôi nổi ở cả ba Kỳ.
- Nếu ở Nam Kỳ, ngay từ cuối năm 1923 Nguyễn An Ninh với tờ báo La Cloche fêlée đã trở thành thủ lĩnh tinh thần tối cao của nhiều làn sóng đấu tranh yêu nước, tiến bộ sục sôi, thì ở Bắc Kỳ, chính là sinh viên ĐHĐD đã đóng vai trò xung kích trong cuộc đấu tranh chống việc kết án tử hình Phan Bội Châu (cuối năm 1925) và vận động để tang, truy điệu Phan Châu Trinh (giữa năm 1926).
- Tiếp đó, hàng chục sinh viên ĐHĐD đã gia nhập và lãnh đạo các tổ chức yêu nước và cách mạng, như Hội Phục Việt (về sau chính là Tân Việt Cách mạng đảng), Việt Nam Quốc dân Đảng và Hội Việt Nam Cách mạng Thanh Niên.
- Càng về sau, số lượng sinh viên ĐHĐD tham gia vào cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng xã hội càng đông đảo hơn, với nhiều hình thức phong phú hơn, nhất là trong thời kỳ cuộc Cách mạng tháng Tám.
- Trong khi những người kiên trung nhất đang xiết chặt đội ngũ dưới ngọn cờ lãnh đạo của Đảng CSĐD và trở thành những nhà lãnh đạo xuất chúng, như Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, thì lớp sinh viên trẻ hơn, đông đến trên dưới 200 người, đứng đầu là Dương Đức Hiền và các hạt nhân, như Trần Bửu Kiếm, Đặng Ngọc Tốt, Lưu Hữu Phước, Huỳnh Văn Tiểng, Mai Văn Bộ vv.
- Từ nơi đó, nhiều vở kịch, nhiều bài ca yêu nước có sức cổ vũ mạnh mẽ đã được hàng chục nhóm sinh viên mang đi phổ biến ở nhiều vùng miền qua hàng loạt các hoạt động công khai, bán công khai đặc sắc như diễn kịch, cắm trại, đua xe đạp, mở hội thề, mít tinh vv.
- Đặc biệt, từ năm 1942 nhóm sinh viên quê Nam Kỳ đã có sáng kiến đạp xe từ Hà Nội truyền ngọn lửa cách mạng xuyên Việt vào miền Nam.
- Có thể nói, trong quá trình chuẩn bị cho cuộc Cách mạng tháng Tám, ngoài hoạt động của Đội Việt Nam Tuyên truyền.
- 7 Giải phóng quân thì không một hoạt động tuyên truyền cách mạng nào sánh nổi với cách hoạt động của sinh viên ĐHĐD do Đảng lãnh đạo - xét về tầm vóc và mức độ tác động thực tế..
- Cùng với các hoạt động trực tiếp tham gia vào các cuộc đấu tranh sinh tử vì độc lập, tự do của Tổ quốc, nhiều sinh viên ĐHĐD đã khởi xướng và tham gia tích cực vào các cuộc vận động văn hóa, xã hội và giáo dục có ý nghĩa tiến bộ và đóng góp rất to lớn vào công cuộc giải phóng con người, giải phóng xã hội.
- Đó là các phong trào nữ quyền với nhiều hoạt động xã hội và văn hóa sôi nổi.
- là cuộc vận động cổ vũ cho các lối sống mới, hợp vệ sinh, thể dục thể thao, các phong trào hướng đạo sinh.
- Đó là các cuộc vận động sôi nổi trên văn đàn với sự xuất hiện của dòng văn học hiện thực phê phán và dòng văn học lãng mạn với Phong trào Thơ mới tạo nên bước tiến vĩ đại trong toàn bộ diễn trình lịch sử văn học - nghệ thuật Việt Nam.
- Nhiều cây bút đã trở thành những tượng đài trong nền văn hóa - văn nghệ Việt Nam cận - hiện đại, vốn xuất thân từ ĐHĐD, như Huy Cận, Xuân Diệu, Nguyễn Đình Thi, Đặng Thai Mai vv...;.
- Phong trào truyền bá chữ Quốc ngữ là một cuộc vận động dân chủ, tiến bộ khởi phát từ năm 1938 với sự tham gia của hàng chục sinh viên và cựu sinh viên ĐHĐD, trong đó có cả Trường Chinh và Võ Nguyên Giáp.
- vừa ra sức tuyên truyền cổ vũ cho các hoạt động yêu nước, tiến bộ, vừa âm thầm nghiên cứu, chuẩn bị về tri thức luật pháp, xã hội, văn hóa và giáo dục vv.
- 15 để góp phần kiến tạo những nền tảng của nước Việt Nam mới, sau khi khôi phục được độc lập.
- Không phải ngẫu nhiên mà những trí thức này đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh trân trọng mời gọi, tin cậy giao nhiệm vụ trong Chính phủ VNDCCH sau thắng lợi của Cách mạng tháng Tám năm 1945..
- Trong nhiều nghiên cứu trước kia, các cuộc vận động này thường bị gán cho tính chất "cải lương", thậm chí bị quy kết thành một bộ phận của âm mưu thâm độc của thực dân, đế quốc nhằm ru ngủ, làm nhụt chí quần chúng, dẫn dắt thanh niên và nhân dân đi chệch hướng, xa rời các cuộc đấu tranh cách mạng..
- 8 Lịch sử càng lùi xa, người ta càng nhận thức rõ hơn giá trị và đóng góp to lớn, có ý nghĩa tích cực, vô cùng quan trọng của những cuộc vận động duy tân, tiến bộ này vào sự nghiệp khai phóng (emancipation) của dân tộc Việt Nam thời cận đại.
- Đồng thời, sự khai phóng về xã hội và các phương diện của đời sống tinh thần cũng chỉ có thể đạt tới đích cuối cùng khi nó hướng tới phục vụ mục tiêu khai phóng về chính trị, làm cho dân tộc được tự do, quốc gia được độc lập, có chủ quyền đầy đủ và toàn vẹn.
- Vì vậy, cuộc đấu tranh giải phóng dân tộc luôn hòa quyện và tương hỗ với cuộc đấu tranh giải phóng con người, giải phóng xã hội.
- Nguyễn An Ninh nói: "Dân tộc nào để cho nền văn hóa ngoại bang ngự trị thì không thể có độc lập thực sự.
- Văn hóa là tâm hồn của một dân tộc.".
- 16 Còn Hồ Chí Minh thì nói: "Văn hóa soi đường cho quốc dân đi", 17 và "Một dân tộc dốt là một dân tộc yếu".
- 18 Chính vì lẽ đó mà đầu năm 1943, ngay trong những ngày tháng quyết liệt, khẩn trương chuẩn bị lực lượng cho cuộc cách mạng dân tộc giải phóng, Trường Chinh, một cựu sinh viên ĐHĐD - khi đó là Tổng Bí thư của Đảng CSĐD, đã phác thảo ra bản Đề cương Văn hóa Việt Nam nổi tiếng, đề xuất ba nguyên tắc nền tảng cho nền văn hóa của một nước Việt Nam mới: "dân tộc hóa đại chúng hóa".
- Sự phân biệt giữa "cách mạng".
- và "cải lương", vì vậy, cần được đặt trong mối quan hệ biện chứng, đa chiều của thực tiễn cuộc vận động phi thực dân hóa ở Việt Nam, với hai nội dung cốt lõi là canh tân và cứu quốc (dân tộc và dân chủ, giải phóng dân tộc và giải phóng xã hội) vốn được khởi xướng từ thế hệ các nhà Nho yêu nước và cấp tiến từ đầu thế kỷ 20.
- Đứng trên lập trường dân tộc mà xem xét thì những đóng góp của các phong trào cách mạng và "cải lương".
- đều như những mạch nguồn có chung một định hướng, cuối cùng sẽ hợp lưu trong dòng chảy lớn: vì một nước Việt Nam mới "độc lập, tự do, hạnh phúc"..
- 9 Trong nhiều công trình trước đây, khi đề cập đến nội dung giáo dục của hệ thống giáo dục thuộc địa nói chung và ĐHĐD nói riêng, người ta thường nhấn mạnh một chiều đến các tính chất "vong bản nô dịch ngu dân".
- và phủ nhận sạch trơn những đóng góp của hệ thống giáo dục này vào diễn trình lịch sử tri thức của dân tộc.
- Chúng tôi cho rằng, nội dung của nền giáo dục thuộc địa nói chung và của chương trình đào tạo của ĐHĐD nói riêng có thể được chia làm hai nhóm:.
- Đối với nhóm thứ nhất, cho dù đứng trên bất kỳ lập trường nào thì người ta đều không thể phủ nhận những đóng góp mới, tích cực, có ý nghĩa lịch sử của nền giáo dục thuộc địa vào diễn trình lịch sử tri thức - trí tuệ Việt Nam.
- Trước khi tiếp xúc với văn minh và nền học vấn phương Tây, trong cấu trúc học vấn mà nền giáo dục Nho học mang lại cho người Việt Nam thì tri thức về khoa học tự nhiên và kỹ thuật gần như bằng không (0).
- Xét từ góc độ này, có thể thấy rất rõ, rằng nền giáo dục thuộc địa, trong đó ĐHĐD là đỉnh cao nhất, đã đáp ứng đúng và trúng vào nhu cầu đổi mới nền tảng tri thức và đổi mới cách học của người Việt Nam.
- Việc bổ sung các tri thức khoa học tự nhiên và kỹ thuật vào cấu trúc tri thức đã làm cho nền tảng tri thức của người Việt Nam có bước chuyển biến lịch sử mang, tính cách mạng và đặt nền móng cho các bước phát triển tiếp theo của khoa học, kỹ thuật và giáo dục Việt Nam trong suốt thế kỷ 20, thậm chí cho tới tận ngày nay..
- Khoa học Xã hội, Hà Nội, 1985, tr.
- 21 Trong sách giáo khoa, trong nội dung các bài giảng, nhất là trong các bài diễn văn, huấn thị của các quan chức thực dân, học sinh, sinh viên đều được dạy dỗ, bị đòi hỏi phải tuyệt đối trung thành với "mẫu quốc", ghi ơn sâu nặng của "mẫu quốc".
- Thậm chí, trong thời kỳ Thế chiến II, học sinh và sinh viên ở Hà Nội và các nơi khác còn được huấn thị và yêu cầu bộc lộ lòng trung thành với Thống chế Philippe Pétain.
- Những nội dung vong bản như trên là đặc điểm chung của nền giáo dục mà thực dân Pháp đã xây dựng và phát triển ở các thuộc địa ở Đông Dương và Bắc Phi.
- Điều quan trọng hơn là: từ nội dung của những trang sách sặc mùi thực dân này đã đẻ ra một thứ văn hóa học đường đầy dẫy những sự kỳ thị, phân biệt chủng tộc, trong đó các giám thị, giáo chức và sinh viên người Pháp đã công khai nhục mạ những sinh viên và cộng sự bản xứ.
- Chính điều này đã tạo nên một áp lực tâm lý vô cùng nặng nề trong số học sinh, sinh viên và giáo chức người Việt.
- Để vượt qua được sự phân biệt, kỳ thị này, học sinh và sinh viên bản xứ buộc phải chọn một trong hai con đường.
- như người da trắng, hoặc là tham gia các phong trào yêu nước và cách mạng, phong trào phản kháng văn hóa và xã hội để bằng nhiều cách khác nhau cùng hướng tới mục tiêu giải trừ chủ nghĩa thực dân..
- Họ nhập quốc tịch Pháp, nhập vào "làng Tây", nói tiếng Pháp, quay lựng lại với văn hóa dân tộc..
- 22 Theo: Dương Thị Thoa (Lê Thi), "Một vài kỷ niệm những ngày đầu tham gia khởi nghĩa Cách mạng tháng Tám", in trong: Hội Khoa học Lịch sử Việt Nam, 19-8: Cách mạng là sáng tạo, Hà Nội, 1995, tr.
- 23 Điều này đã được ghi nhận trong nhiều hồi ức của học sinh, sinh viên hồi đó và được phân tích khá kỹ trong nhiều công trình nghiên cứu.
- Con đường thứ hai chính là con đường mà Nguyễn An Ninh, Nguyễn Thái Học, Phó Đức Chính, Trường Chinh, Võ Nguyên Giáp, Phan Anh, Vũ Đình Hòe, Lưu Hữu Phước, Văn Cao và nhiều sinh viên ĐHĐD đã lựa chọn:.
- trong nội dung của nền giáo dục thuộc địa nói chung và của ĐHĐD nói riêng.
- Không có một dân tộc nào đủ sức tự sản sinh ra toàn bộ tri thức cung cấp cho nền giáo dục "dân tộc".
- Vì vậy, việc du nhập tri thức từ bên ngoài, của toàn nhân loại để làm giàu có cho tài sản trí tuệ của mỗi dân tộc thông qua hoạt động giáo dục và hợp tác nghiên cứu khoa học là một quy luật của nhân loại.
- và cần phải lên án là: lấy việc du nhập, áp đặt tri thức và văn văn hóa từ bên ngoài vào để thay thế, để hạ thấp, kỳ thị, bài bác nền tảng tri thức và tinh hoa văn hóa dân tộc, khiến cho người học coi thường, quay lưng lại nền văn hóa, văn minh của dân tộc..
- Đây chính là một bài học kinh nghiệm rút ra từ việc nghiên cứu và đánh giá vai trò và vị thế của nền giáo dục thuộc địa, trong đó có ĐHĐD, trên hành trình khai phóng của dân tộc thời cận đại.
- Bài học đó vẫn còn nguyên giá trị thực tiễn đối với công cuộc đổi mới và hội nhập quốc tế của Việt Nam về giáo dục và đào tạo trong bối cảnh toàn cầu hóa và kinh tế tri thức.