« Home « Kết quả tìm kiếm

ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THAY THẾ BỘT CÁ BẰNG BỘT ĐẬU NÀNH LÀM THỨC ĂN CHO CÁ THÁT LÁT CÒM (CHITALA CHITALA HAMILTON, 1822)


Tóm tắt Xem thử

- ĐÁNH GIÁ KHẢ NĂNG THAY THẾ BỘT CÁ BẰNG BỘT ĐẬU NÀNH.
- Chitala chitala, bột đậu nành, bột cá, nguồn protein thay thế.
- Nghiên cứu được thực hiện nhằm đánh giá khả năng thay thế protein bột cá bằng các mức protein bột đậu nành (BĐN) trong khẩu phần ăn của cá thát lát còm (Chitala chitala) giai đoạn giống có khối lượng trung bình 6,4 g/con.
- Thí nghiệm được bố trí hoàn toàn ngẫu nhiên với 6 nghiệm thức thức ăn có cùng mức protein 42,5% và năng lượng 18,5 KJ/g.
- Nghiệm thức đối chứng sử dụng hoàn toàn protein bột cá (0% BĐN), các nghiệm thức còn lại sử dụng protein BĐN thay thế protein bột cá với các mức thay thế lần lượt là và 75%.
- Sau 8 tuần thí nghiệm, tỉ lệ sống (SR), tăng trọng (WG), hiệu quả sử dụng protein (PER) và chỉ số gan trên cơ thể (HSI) của cá giảm dần khi tăng tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn..
- Tuy nhiên kết quả ở nghiệm thức thay thế 0,15 và 30% protein bột đậu nành khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05).
- Các kết quả của nghiên cứu này cho thấy có thể sử dụng 30% protein bột đậu nành thay thế protein bột cá trong thức ăn mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá thát lát còm giống..
- Chi phí thức ăn thường chiếm cao nhất trong tổng chi phí nuôi thủy sản, trong đó protein được.
- xem là thành phần dưỡng chất quan trọng trong khẩu phần thức ăn.
- thức ăn cho động vật thủy sản.
- Nhiều nghiên cứu cho thấy BĐN có thể thay thế 60-80% bột cá trong khẩu phần thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009).
- Việc sử dụng nguồn protein BĐN thay thế nguồn protein bột cá trong thức ăn đã được nghiên cứu thành công trên nhiều đối tượng như cá tra (Lê Quốc Phong, 2010), cá lóc bông (Lê Quốc Toán, 2010), cá tráp vây vàng (Venou et al., 2006), cá tráp mõm nhọn (Hernandez et al., 2007.
- Tuy nhiên, hiện nay vẫn chưa có nghiên cứu nào về sử dụng nguồn protein BĐN cho cá thát lát còm (Chitala chitala).
- Vì vậy, nghiên cứu khả năng thay thế bột cá bằng bột đậu nành làm thức ăn là rất cần thiết nhằm đánh giá khả năng tiêu hóa và sử dụng bột đậu nành của cá thát lát còm, từ đó làm cơ sở cho việc xây dựng công thức thức ăn cho cá thát lát còm và giảm giá thành sản phẩm..
- 2 PHƯƠNG PHÁP NGHIÊN CỨU 2.1 Thức ăn thí nghiệm.
- Thí nghiệm gồm 6 nghiệm thức thức ăn có cùng mức protein 42,5% và năng lượng 18,5 KJ/g..
- Nghiệm thức đối chứng sử dụng hoàn toàn protein bột cá (nghiệm thức 0% BĐN), các nghiệm thức còn lại sử dụng protein BĐN thay thế protein bột cá với các mức thay thế lần lượt là .
- Thức ăn được trộn chất đánh dấu Cr 2 O 3 (tỉ lệ 1%) để xác định độ tiêu hóa.
- Bảng 1: Thành phần nguyên liệu và thành phần hóa học của thức ăn.
- Thành phần hóa học của thức ăn.
- Lượng thức ăn được ghi nhận hằng ngày.
- Bột cá Bột đậu nành.
- Hệ số thức ăn (FCR.
- lượng thức ăn sử dụng/khối lượng cá gia tăng.
- Độ tiêu hóa thức ăn (Apparent Digestibility Coefficient, ADC).
- Độ tiêu hóa dưỡng chất thức ăn (Apparent Digestibility Coefficient Nutrient, ADC Nu-Diet.
- A: chất đánh dấu có trong thức ăn (tính theo khối lượng khô).
- A’: chất dinh dưỡng có trong thức ăn (tính theo khối lượng khô).
- 3.1 Tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá thát lát còm sau 8 tuần thí nghiệm.
- Sau 8 tuần thí nghiệm, tỉ lệ sống của cá ở các nghiệm thức giảm theo sự gia tăng của tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn, dao động khoảng .
- Tỉ lệ sống cao nhất (86,0%) ở nghiệm thức 0%.
- Cá thát lát còm là loài có tập tính ăn thiên về động vật nên khi tăng tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn làm giảm khả năng bắt mồi của cá, thời gian kéo dài dẫn đến cá bỏ ăn, chậm lớn và chết.
- (2012), cá lăng nha (Mystus wyckioides) có thể sử dụng thức ăn có chứa 15% protein bánh dầu đậu nành thay thế protein bột cá trong khẩu phần thức ăn ở mức protein 35% mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá.
- Tỷ lệ sống giảm nhưng khác biệt không có ý nghĩa ở các nghiệm thức thay thế từ 0-40%..
- Bảng 3: Tỉ lệ sống và tăng trưởng của cá thát lát còm sau 8 tuần thí nghiệm.
- Nghiệm thức Tỉ lệ sống.
- Trong khi đó, theo kết quả nghiên cứu của Lê Quốc Phong (2010) có thể thay thế 60% protein bột cá bằng protein BĐN trong thức ăn cho cá tra mà không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống của cá.
- Một số nghiên cứu khác khi thay thế protein bột cá bằng protein BĐN thì không ảnh hưởng đến tỉ lệ sống như cá chẽm (Lates calcarifer) (Tantikitti et al., 2005).
- Tăng trưởng của cá có khuynh hướng giảm theo sự gia tăng tỷ lệ protein BĐN trong thức ăn..
- Khả năng sử dụng nguồn protein BĐN ở cá thát lát còm cũng tương tự như một số loài cá ăn động vật khác.
- (2005) về ảnh hưởng của thay thế protein bột cá bằng protein BĐN trong thức ăn của cá chẽm (Lates calcarifer) cho thấy tăng trưởng của cá giảm khi mức thay thế vượt quá 10%.
- cá hồng đốm (Lutjanus guttatus) có thể thay thế 20%.
- (2012), có thể sử dụng thức ăn có chứa 15% protein bánh dầu đậu nành thay thế protein bột cá trong thức ăn có mức.
- Bên cạnh đó, có thể thay thế 30% protein bột cá bằng protein BĐN trong thức ăn của cá nóc (Takifugu rubripes) (Lim et al., 2011) và cá lóc (Channa striata) (Trần Thị Bé, 2010)..
- Các loài ăn tạp và ăn thực vật có khả năng sử dụng protein BĐN tốt như cá tra có thể sử dụng 60% protein bột đậu nành trong thức ăn (Lê Quốc Phong, 2010).
- Theo kết quả một số nghiên cứu trước đây cho thấy tăng trưởng của cá giảm khi sử dụng protein BĐN thay thế protein bột cá trong thức ăn..
- Đối với cá trê phi và cá tra có thể sử sụng nguồn protein BĐN trong thức ăn lần lượt là 50% và 60% mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng của cá.
- Khuynh hướng này cũng phù hợp với báo cáo của Ai and Xie (2005), cá Southern catfish (Silurus meridionalis) có khả năng sử dụng 39% protein BĐN trong thức ăn thay thế cho bột cá nếu không bổ sung methionine và khả năng thay thế là 52% nếu có bổ sung methionine..
- Hình 1: Tăng trưởng tương đối của cá thát lát còm 3.2 Hiệu quả sử dụng thức ăn.
- Kết quả thí nghiệm cho thấy chỉ số FI có khuynh hướng giảm dần tương ứng với sự gia tăng tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn (Bảng 4).
- Trong bột cá có hàm lượng vitamin A và D cao và thích hợp cho việc bổ sung vitamin A trong thức ăn.
- Đặc biệt, bột cá làm cho thức ăn trở nên có mùi hấp dẫn và tính ngon miệng của thức ăn.
- Vì vậy, khi sử dụng BĐN thay thế bột cá trong.
- thức ăn sẽ làm giảm tính hấp dẫn của viên thức ăn, giảm khả năng bắt mồi, dẫn đến tăng trưởng của cá giảm..
- Kết quả nghiên cứu cho thấy lượng thức ăn cá ăn vào FI của cá không ảnh hưởng khi hàm lượng thay thế protein bột cá là 45%.
- Trong khi đó nghiên cứu trên cá chẽm (Lates calcarifer) cho thấy lượng thức ăn cá ăn vào giảm và khác biệt có ý nghĩa khi mức thay thế vượt quá 10% (Tantikitti et al., 2005).
- Khuynh hướng này cũng được thể hiện trên cá hồng đốm (Lutjanus guttatus) (Silva et al., 2012), lượng thức ăn cá ăn vào giảm và khác biệt có ý nghĩa khi hàm lượng protein BĐN vượt 20%..
- Hệ số thức ăn (FCR) của cá thát lát còm tăng khi mức thay thế protein bột cá bằng protein BĐN trong thức ăn tăng.
- FCR đạt thấp ở nghiệm thức thay thế 0-30% protein BĐN khác.
- Nhìn chung, hệ số FCR ở các nghiệm thức tương đối thấp so với các nghiên cứu thay thế protein bột cá bằng protein BĐN khác như trên cá tra giống 6 g Lê Quốc Phong, 2010), cá giò 9,48 g Phạm Đức Hùng và Nguyễn Đình Mão, 2009)..
- Nghiên cứu của Lin and Luo (2011) trên cá rô phi lai (Oreochromis niloticus x Oreochromis aureus) cho thấy có thể thay thế 75% protein bột cá bằng protein BĐN mà không ảnh hưởng đến sinh trưởng, FCR và PER.
- Bảng 4: Lượng thức ăn cá ăn vào FI, hệ số thức ăn (FCR) và hiệu quả sử dụng protein (PER) của cá thát lát còm.
- Nghiệm thức.
- Kết quả cho thấy chỉ số HSI cao ở nghiệm thức thay thế từ 0-30% protein BĐN (0,73-0,75.
- (2011) khi tăng tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn thì chỉ số HSI giảm và khác biệt không có ý nghĩa (p>0,05) ở nghiệm thức thay từ 0-15% protein BĐN..
- Nghiệm thức HSI.
- Tuy nhiên trong một số nghiên cứu cho thấy chỉ số HSI không chịu ảnh hưởng khi sử dụng protein BĐN thay thế protein bột cá trong thức ăn..
- Nghiên cứu trên cá tra của Lê Quốc Phong (2010) với tỉ lệ thay thế là 100% thì không ảnh hưởng tới chỉ số HSI.
- 3.4 Độ tiêu hóa thức ăn của cá thát lát còm Độ tiêu hóa của cá giảm theo sự gia tăng tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn.
- Độ tiêu hóa vật chất khô, protein và lipid cao ở nghiệm thức thay thế 0% và 15% protein BĐN, khác biệt không có ý nghĩa so với nghiệm thức 30% (p>0,05) và khác biệt có ý nghĩa so với các nghiệm thức còn lại (p<0,05) (Bảng 6)..
- và có xu hướng giảm dần theo nghiệm thức thay thế.
- Nguyên nhân là do hàm lượng xơ trong thức ăn tăng tương ứng với tỉ lệ gia tăng protein BĐN..
- Chất xơ có tác dụng gia tăng tốc độ thức ăn đi qua ống tiêu hóa nên nó có tác dụng tăng lượng thức ăn động vật thủy sản ăn vào, tuy nhiên hàm lượng xơ cao sẽ làm giảm độ tiêu hóa thức ăn (Trần Thị Thanh Hiền và Nguyễn Anh Tuấn, 2009)..
- Tăng tỉ lệ protein BĐN lên 30% trong thức ăn của cá thát lát còm vẫn đảm bảo cá tiêu hóa tốt thức ăn.
- đến chất lượng môi trường, thức ăn có độ tiêu hóa protein thấp làm tăng lượng chất thải ra môi trường ao nuôi và ngược lại.
- Trong thí nghiệm này, độ tiêu hóa protein tương đối cao, dao động trong khoảng và giảm dần theo tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn.
- (2007) trên cá tráp mõm nhọn Diplodus puntazzo, độ tiêu hóa protein dao động 91-94,1%, có xu hướng giảm và khác biệt có ý nghĩa khi tỉ lệ thay thế vượt mức 40%.
- (2006) trên cá tráp (Sparus aurata) độ tiêu hóa của cá giảm khi tăng tỉ lệ BĐN trong thức ăn.
- Độ tiêu hóa protein dao động khác biệt không có ý nghĩa ở nghiệm thức thay thế 0-40% protein BĐN..
- Độ tiêu hóa lipid có xu hướng giảm dần khi tăng tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn trên 15%..
- 92,3%, khác biệt không có ý nghĩa ở nghiệm thức thay thế 0-40% protein BĐN..
- 3.5 Thành phần sinh hóa của cá thát lát còm Kết quả thành phần hóa học của cá cho thấy ẩm độ cơ thể cá không bị ảnh hưởng bởi các mức thay thế protein BĐN, dao động trong khoảng 78,6-80,1%.
- Hàm lượng protein có xu hướng tăng khi gia tăng tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn, cao nhất ở nghiệm thức 75% BĐN (14,6.
- Hàm lượng lipid đạt cao nhất ở nghiệm thức thay thế 15% protein BĐN (1,38.
- Hàm lượng lipid giảm theo mức thay thế protein bột cá bằng protein BĐN trong thức ăn cũng được ghi nhận trên nhiều loài cá khác nhau như cá chẽm (Lates calcarifer) (Tantikitti et al., 2005).
- Bảng 7: Thành phần hóa học của cá thát lát còm (theo khối lượng tươi).
- Khi tăng tỉ lệ protein.
- BĐN lên 75% trong thức ăn sẽ không ảnh hưởng đến hàm lượng tro trong cơ thịt cá.
- nhiên, theo nghiên cứu của Lê Quốc Phong (2010) tỉ lệ protein BĐN trong thức ăn sẽ làm giảm hàm lượng tro của cá tra ở mức thay thế 80%..
- Trong thức ăn của cá thát lát còm có thể sử dụng 30% protein bột đậu nành thay thế protein bột cá mà không ảnh hưởng đến tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn của cá.
- Khi tăng tỉ lệ protein bột đậu nành trong thức ăn sẽ làm giảm hàm lượng lipid mà không ảnh hưởng đến hàm lượng protein và tro tích lũy trong cơ thịt của cá..
- Nghiên cứu khả năng sử dụng bột đậu nành làm thức ăn cho cá tra (Pangasianodon hypophthalmus) giống.
- Nghiên cứu sử dụng bột đậu nành làm thức ăn chế biến cho cá lóc bông (Channa micropeltes, Cuvier, 1831).
- Thức ăn và dinh dưỡng thủy sản.
- Đánh giá khả năng sử dụng thức ăn bánh dầu đậu nành lên sức tăng trưởng và hiệu quả sử dụng thức ăn cho cá lăng nha (mystus wyckioides chaux và fang..
- Ảnh hưởng của thay thế bột cá bằng bã dầu đậu nành trong thức ăn đến sinh trưởng và thành phần sinh hóa của cá giò.
- Nghiên cứu bổ sung phytase và taurine vào thức ăn cho cá lóc đen (Channa striata).
- Dinh dưỡng và thức ăn thủy sản.
- Khả năng sử dụng thức ăn chế biến của cá còm (Chitala chitala) giai đoạn bột lên giống