« Home « Kết quả tìm kiếm

DẤU ẤN ẢNH HƯỞNG CỦA THIÊN DIỄN LUẬN 天演論 - BẢN DỊCH TRUNG VĂN CUỐI THẾ KỶ XIX CỦA CUỐN SÁCH EVOLUTION AND ETHICS (TIẾN HOÁ VÀ ĐẠO ĐỨC) TRONG VĂN HỌC CỦA NHÀ NHO VIỆT NAM ĐẦU THẾ KỶ XX (MỘT SỐ VẤN ĐỀ LÝ LUẬN TIẾP XÚC VĂN HOÁ ĐÔNG - TÂY Ở ĐẦU THẾ KỶ XX)


Tóm tắt Xem thử

- Chúng ta đã biết nhiều về phong trào Duy tân của nhà nho yêu nước ở Việt Nam đầu thế kỷ XX qua các công trình nghiên cứu khác nhau.
- Nhiều nhà nghiên cứu đã nói đến ảnh hưởng của sách Tân thư đến từ Trung Quốc đối với tư tưởng của họ.
- Tuy nhiên, có một thực tế là tuy các tên tuổi như Mạnh Đức Tư Cưu, Lư Thoa, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu,… được nói đến đây đó khi bàn về các nhân vật có ảnh hưởng đối với nhà nho Việt Nam, song ở nước ta hiện chưa có nghiên cứu nào dành riêng cho việc khảo sát tỷ mỉ các nguồn ảnh hưởng.
- Chẳng hạn, nếu nói các nhà nho duy tân Việt Nam đã đọc sách của Montesquie (Mạnh Đức Tư Cưu) thì họ đã đọc qua ngôn ngữ nào? Nếu là đọc qua bản dịch tiếng Hán thì bản dịch ấy đã được thực hiện ra sao, dịch nguyên văn hay dịch ý, người dịch có thêm bớt hay lý giải theo thiên kiến chủ quan hay không, và những vấn đề như thế liệu có ảnh hưởng gì đến tư tưởng duy tân của người Việt Nam? Tóm lại là, hiện nay, việc khảo sát quan hệ liên văn bản giữa các phát ngôn, các từ ngữ và khái niệm đã được nhà nho Việt Nam sử dụng để diễn đạt tư tưởng duy tân với các tác phẩm triết học và văn học chữ Hán như là nguồn ảnh hưởng vẫn đang là công việc cần thiết..
- Trong đợt hội thảo về Tân thư tại Trường Đại học Khoa học xã hội và Nhân văn đã bắt đầu nghe thấy nói trong loại Tân thư, có sách Thiên diễn luận, bản dịch của Nghiêm Phục dịch sách Evolution and Ethics của Thomas Henry Huxley 1 .
- 1) dòng Tân thư phê phán tư tưởng bảo thủ.
- 2) dòng Tân thư giới thiệu tư tưởng phương Tây.
- Nhật Bản có Fukuzawa Yukichi nhà tư tưởng Tây học tầm cỡ.
- Nghiêm Phục, nhà Tây học Trung Quốc được mệnh danh là danh sư Tây học, người đã dịch cuốn sách Tiến hoá luận nổi tiếng của Huxley” 2 .
- Một nhà nghiên cứu khác là Nguyễn Thạch Giang cũng viết: “Trong giai đoạn đầu thế kỷ XX, một tác giả nổi tiếng của Trung Hoa là Nghiêm Phục người có uy tín nhất về mặt nghiên cứu tư tưởng Tây phương” 3 .
- Thông tin về sự nghiệp dịch thuật của Nghiêm Phục như các dẫn chứng trên là rất hiếm hoi ở Việt Nam, vì đa số các nhà nghiên cứu thường chỉ nhắc đến Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu.
- Tiếc là hai nhà nghiên cứu chưa đi sâu khảo sát sự nghiệp dịch thuật của Nghiêm Phục qua Thiên diễn luận..
- Chúng tôi chọn Thiên diễn luận khảo sát vì trong xu thế trí thức Trung Quốc hướng về phương Tây để tìm đường đổi mới tư tưởng, đây là một công trình dịch thuật tiêu biểu giới thiệu tư tưởng phương Tây, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến tư tưởng Duy tân ở Trung Quốc và qua đó, ảnh hưởng đến Việt Nam.
- Tuy hiện nay chưa có bằng chứng cụ thể xác nhận các nhà nho duy tân Việt Nam đã từng đọc Thiên diễn luận, song xét theo lý thuyết liên văn bản, dấu ấn ảnh hưởng - dù là gián tiếp hay trực tiếp - của bản dịch này là rõ ràng.
- Phân tích bản dịch này và dấu ấn ảnh hưởng của nó, có thể chỉ ra được một số đặc điểm của tư tưởng yêu nước của các nhà nho Việt Nam trên con đường cứu nước đầu thế kỷ XX..
- Có thể thấy, hai tư tưởng duy tân quan trọng nhất ở Trung Quốc và Việt Nam là cạnh tranh sinh tồn và hợp quần.
- Nhìn từ mối quan hệ liên văn bản, nếu so sánh bản dịch Thiên diễn luận với sáng tác thơ văn của các nhà nho Việt Nam, có thể nghĩ rằng hai tư tưởng này đã đến với các nhà nho Việt Nam từ văn bản gốc là Thiên diễn luận, dẫu họ có thể đọc trực tiếp bản dịch hay đọc gián tiếp qua một tác giả khác có ảnh hưởng Thiên diễn luận.
- Như Ngô Nhữ Luân viết trong lời đề tựa cho Thiên diễn luận, “Thiên diễn giả, Tây quốc cách vật gia ngôn dã.
- Có thể tóm tắt vấn đề như thế này: Nghiêm Phục chọn dịch cuốn sách Tiến hoá và đạo đức của Thomas Henry Huxley là vì ông tìm thấy ở đây cơ sở tư tưởng cần thiết cho một yêu cầu cấp thiết đổi mới tư tưởng cho người Trung Quốc.
- liên hệ phân tích, so sánh với tư tưởng của Tư Tân Tắc - Herbert Spencer - một nhà tiến hoá luận xã hội quan trọng khác, được nhắc đến khá nhiều trong bản dịch này.
- Thông thường, nhà nho quan niệm lịch sử theo mô hình chu kỳ với sự thay đổi của hưng – vong, thịnh - suy, bĩ - thái..
- Nhưng thay đổi như thế nào? Thuyết tiến hoá của Darwin qua cách diễn giải của Huxley và Spencer đã cấp cơ sở lý luận cho các nhà tư tưởng duy tân của Trung Quốc.
- Theo thuyết tiến hoá phổ quát, có một quy luật tự nhiên là sự vật cạnh tranh để sinh tồn.
- Vật cạnh (các loài vật cạnh tranh), thiên trạch (sự lựa chọn tự nhiên) là cách diễn tả tinh thần của tiến hoá luận ứng dụng vào xã hội.
- Nhưng sự nghiệp cạnh tranh sinh tồn của một dân tộc đòi hỏi sự đoàn kết, đồng tâm nhất trí của cả xã hội, cả dân tộc.
- Từ đó mà có sự cấp thiết của hợp quần (đoàn kết xã hội), cần có sự ưu tiên cho hợp quần hơn là cá nhân.
- Không chỉ tư tưởng mà cả các khái niệm Hán ngữ dùng dịch các thuật ngữ tiến hoá luận như trên đã được Nghiêm Phục lần đầu tiên sử dụng, có ảnh hưởng mạnh mẽ đến các nhà tư tưởng của phong trào Duy tân Trung Quốc.
- Hồ Thích có kể lại là ông bị tác động mạnh bởi câu “Vật cạnh thiên trạch, thích giả sinh tồn” từ Thiên diễn luận đến mức đã lấy chữ Thích thay cho tên cũ của mình 5 .
- “Nghiêm Phục qua việc dịch thuật lý luận của hai nhà Huxley và Spencer đã khiến cho người trong nước liên tưởng đến cảnh ngộ của mình, đồng thời nảy sinh tư tưởng duy tân, tự cường.
- Từ ý nghĩa đó thì nói Thiên diễn luận là một trước tác học thuật phương Tây được Nghiêm Phục dịch không bằng nói đó là một lợi khí tư tưởng của ông để hun đúc phong trào duy tân.
- “Thuyết tiến hoá luận xã hội trong Thiên diễn luận có quan hệ mật thiết với Mậu Tuất biến pháp.
- Điều đó biểu hiện chủ yếu trong việc phần tử trí thức cuối đời Thanh giải thích mối quan hệ giữa tư tưởng cạnh tranh sinh tồn và hợp quần… Học thuyết.
- cạnh tranh sinh tồn và tư tưởng hợp quần được diễn giải trong Thiên diễn luận vừa được tầng lớp tinh hoa quan tâm mà còn đem lại sự trọng thị của giới độc giả phổ thông” 7 .
- Nghiêm Danh ghi nhận: “Trước khi chính thức xuất bản, Thiên diễn luận đã được đăng tải trên Quốc văn báo năm 1897 đã lập tức chấn động giới trí thức Trung Quốc, gây ảnh hưởng hết sức sâu xa.
- Đương thời, Ngô Nhữ Luân, Khang Hữu Vi, Lương Khải Siêu cho đến sau này, Lỗ Tấn, Hồ Thích… không ai không ca ngợi, tiếp nhận ảnh hưởng của sách một thời, Thiên diễn luận thịnh hành trên toàn quốc, trở thành căn cứ lý luận cho nền chính trị cải lương mà “vật cạnh thiên trạch, thích giả sinh tồn” thành câu nói cửa miệng trong xã hội” 8 .
- Vương Thiên Căn dẫn ý kiến của một người ở đầu thế kỷ XX: “Hồ Hán Dân viết: “Từ khi họ Nghiêm xuất bản sách này, thì cái quy luật vật cạnh thiên trạch ăn sâu vào lòng người mà cái dân khí của Trung Quốc vì thế mà biến đổi.
- Vương Thiên Căn còn viết: “Trước Mậu Tuất biến pháp, Thiên diễn luận thu hút sự chú ý cao độ của bộ phận trí thức tiến bộ.
- Lương Khải Siêu, Khang Hữu Vi, Ngô Nhữ Luân, Hạ Tăng Hựu, Lã Tăng Tường, Hùng Quý Khang, Tôn Bảo Tuyên và “chư sinh” của Vị Kinh thư viện đều đã đọc bản cảo hay bản sao đầu tiên của Thiên diễn luận.
- Về sau, khi Thiên diễn luận được xuất bản, bắt đầu được lưu truyền rộng rãi trong xã hội” 9 .
- Đó là một số sự kiện và ý kiến cho thấy, vấn đề cạnh tranh sinh tồn, hợp quần bảo chủng đã được Thiên diễn luận lần đầu tiên chuyển tải đến người Trung Quốc.
- Bản thân Nghiêm Phục trong Lời lệ ngôn viết cho bản dịch cũng ghi nhận chính ông là người sử dụng các từ ngữ nói trên: “Các danh từ như vật cạnh, thiên trạch, trữ năng, hiệu thực đều do tôi mở đầu dùng”.
- Xét ngọn nguồn ảnh hưởng đến tư tưởng nhà nho Việt Nam, cần tìm đến công trình này..
- Như đã nói, trong Thiên diễn luận, Nghiêm Phục đã nhân tư tưởng của Huxley và Spencer về tiến hoá luận xã hội mà đề xướng phong trào cứu vong dân tộc đang rất bức thiết đối với Trung Quốc.
- Luận điểm quan trọng về cạnh tranh sinh tồn, chọn lọc tự nhiên được nhắc đến nhiều lần từ các góc độ khác nhau.
- Cái gọi là vật cạnh, là các loài vật cạnh tranh nhau vì sự tự sinh tồn, một loài vật cùng các loài vật khác cạnh tranh, hoặc là tồn tại, hoặc tiêu vong.
- Gọi là thiên trạch, tức là loài vật cạnh tranh để riêng mình tồn tại… Herbert Spencer nói: “cái gọi là thiên trạch là việc bảo tồn loài nào có khả năng thích nghi cao nhất.
- Loài vật đã cạnh tranh để sinh tồn thì sau đó trời theo sự cạnh tranh này mà lựa chọn.
- Tinh thần của đoạn văn này là tôn chỉ của toàn bộ Thiên diễn luận mà các đoạn khác sẽ triển khai nhất quán..
- Để cạnh tranh sinh tồn trong thế giới hiện đại, một dân tộc phải biết đoàn kết (hợp quần) để tạo nên sức mạnh.
- Đó là logic tất yếu dẫn đến lý luận hợp quần..
- Ông nói đạo hợp quần là do lòng người thiện có tương cảm mà hình thành, có thể đảo lộn nhân thành quả, không thể không biết.
- Nhưng khi đã hợp quần vì điều lợi thì việc chọn lọc tự nhiên (thiên diễn) là loài có khả năng hợp quần được tồn tại, không hợp quần bị diệt vong.
- khéo hợp quần được tồn tại, không khéo hợp quần bị diệt vong”.
- Tư tưởng duy tân nhấn mạnh đến giáo dục thực ra đã xuất phát từ nhận thức về quy luật cạnh tranh sinh tồn và hợp quần..
- Có thể nói các diễn ngôn tương tự về “vật cạnh thiên trạch”, “hợp quần” đều có thể gặp trong thơ văn của các nhà nho duy tân Việt Nam.
- Nguyễn Thượng Hiền: “Sóng cạnh tranh lai láng giữa hoàn cầu” (Phú cải lương).
- Phan Bội Châu cũng liên hệ đến sự thất bại của người da đỏ theo quan điểm cạnh tranh sinh tồn, ưu thắng liệt bại để thôi thúc người trong nước suy nghĩ về nguy cơ diệt chủng mà lo hợp quần tranh đấu:.
- Trong cách nhìn của các nhà nho yêu nước, giống da vàng cũng không phải là kém cỏi..
- Để cạnh tranh sinh tồn, vấn đề cấp thiết nhất lúc này là chống lại nguy cơ diệt chủng, là đoàn kết dân tộc thành một khối.
- “Đoàn kết” khi đó được các nhà nho diễn đạt bằng khái niệm “hợp quần”.
- Từ vấn đề hợp quần lại có vấn đề quan hệ giữa cá nhân và tập thể (trong thơ các cụ gọi bằng chữ đàn), đòi hỏi cá nhân phải hy sinh trước lợi ích tập thể:.
- Hai chữ độc lập, Với chữ hợp quần..
- Vậy nên độc lập, Với chữ hợp quần..
- Hợp quần theo cách hiểu duy tân là nhằm mục đích không chỉ tạo nên sức mạnh chính trị mà còn cả sức mạnh kinh tế, từ đó mà làm nên sức mạnh cạnh tranh thực sự của dân tộc.
- Nội dung tư tưởng yêu nước của nhà nho đã thay đổi quan trọng.
- Nguyễn Thượng Hiền trong Hợp quần doanh sinh thuyết đã không chỉ thấy sự cần thiết của thương nghiệp mà còn trình bày các biện pháp tổ chức như hùn góp vốn, mua sắm máy móc để sản xuất những hàng hoá tinh xảo cạnh tranh khiến cho hàng ngoại thất bại:.
- Ông đề cao giá trị của đồng tiền như là tiền đề của việc kinh doanh - một cách nhìn hoàn toàn mới so với thái độ khinh miệt cố hữu của nhà nho đối với tiền - để từ đó, thuyết phục mọi người tiết kiệm và góp vốn để thành sức mạnh:.
- Sự mô tả sơ lược trên đây cho thấy, dù trực tiếp hay gián tiếp, các nhà nho duy tân Việt Nam đầu thế kỷ XX đã tiếp nhận các tư tưởng và diễn ngôn từ Thiên diễn luận (và có thể một số bản dịch các sách phương Tây khác) của Nghiêm Phục..
- Từ các phái bộ do nhà Nguyễn phái đi Đông Nam Á (miền Hạ Châu) cho đến các nhà nho yêu nước đầu thế kỷ tiếp nhận tư tưởng phương Tây đều có điểm giống nhau: dùng chữ Hán làm chuyển ngữ, chữ Hán được dùng để “bút đàm”..
- Nhà nho Việt Nam coi thường chữ Tây vì cho rằng nó kém chữ của Thánh hiền nên không thèm học? Hay họ cho rằng chỉ những thông tin diễn đạt bằng chữ Hán mới đáng tin cậy, đáng học tập, nghiên cứu? Nhưng việc thông qua chữ Hán để tiếp nhận văn hoá của thế giới phương Tây vừa có mặt tích cực, vừa có mặt tiêu cực.
- Các nhà tư tưởng Trung Quốc có công đi tiên phong trong việc giới thiệu tư tưởng phương Tây, các nhà nho Việt Nam nhờ chữ Hán như một phương tiện, đã nhanh chóng nắm bắt được những tư tưởng mới của phương Tây, từ đó phá bỏ những thành kiến tư tưởng cũ cản trở hoạt động yêu nước mà không cần đợi đến khi học được tiếng Anh, tiếng Pháp mới hiểu được những cái mới đó.
- Nói cách khác, chữ Hán đã giúp các nhà nho Việt Nam tránh được tình trạng lạc hậu, đạt được một mặt bằng tư tưởng ngang với mặt bằng tư tưởng trong khu vực lúc đó, tiếp nhận được những thông tin quý báu từ văn hoá Tây phương.
- Đặc biệt phải ghi nhận sức mạnh tinh thần to lớn mà tư tưởng cạnh tranh sinh tồn, bảo chủng đã đem lại cho các nhà nho yêu nước.
- dùng chữ Hán làm cửa sổ mở ra thế giới bên ngoài là nhà nho Việt Nam phải chấp nhận nhìn và hiểu tư tưởng bên ngoài theo lăng kính của người Trung Quốc.
- Khi dịch Thiên diễn luận, mặc dù Nghiêm Phục tuyên bố chủ trương dịch thuật của ông là tín, đạt, nhã nhưng như giới nghiên cứu chỉ rõ, ông đã gia (thêm thắt), giảm (bớt đi), cải (thay đổi) và án (thêm lời bình luận).
- Vương Khắc Phi đã so sánh bản dịch Thiên diễn luận với nguyên tác của Huxley và phát hiện thấy ông đã cắt bỏ nhiều đoạn và sửa đổi khi dịch nhằm nhấn mạnh chủ đề ông quan tâm là “tự cường, bảo chủng” 11 .
- Do đó, không thể nói là bản dịch trình bày trung thành tư tưởng tác giả nguyên tác theo quan điểm tín..
- Rất may là các nhà nho Việt Nam tìm thấy ở đây nền tảng lý luận cần thiết cấp bách cho công cuộc duy tân, cứu nước.
- Nhưng nếu cứ đọc qua bản dịch chữ Hán với cách giải thích chủ quan của người dịch như thế liệu có đảm bảo hiểu đúng tư tưởng triết học Tây phương hiện đại?.
- 2) Trong khi say mê với vấn đề tiến hoá (evolution), cả Nghiêm Phục, cả các nhà tư tưởng tư sản Trung Quốc và các nhà nho duy tân Việt Nam đã vô tình đứng về phía chống lại cách mạng mà chủ trương tiến triển xã hội dần dần.
- Bản dịch hấp dẫn của Nghiêm Phục đã thu hút tâm trí của người Trung Quốc và Việt Nam, vừa có lợi song lại vừa có hại, vừa thúc đẩy tinh thần duy tân lại vừa làm lạc hướng tư tưởng cần có về cách mạng xã hội, giải phóng dân tộc.
- Bản thân Nghiêm Phục, vì theo tư tưởng tiến hoá dần dần, tuần tự nhi tiến, đã không ủng hộ cuộc cách mạng lật đổ chế độ Mãn Thanh năm 1912.
- Thuyết tiến hoá ứng dụng vào xã hội có những khía cạnh máy móc, cơ giới..
- Tôn Trung Sơn từng đã phản đối thuyết cạnh tranh sinh tồn.
- Tôn Trung Sơn thừa nhận sinh vật tiến hoá luận mà không tán đồng xã hội tiến hoá luận, ông hô hào hỗ trợ luận: “Lực tiến hoá chủ yếu của tiến hoá nhân loại nằm ở sự hỗ trợ lẫn nhau chứ không ở sự cạnh tranh như là cạnh tranh trong giới động vật”.
- Đây là vấn đề mà những người nghiên cứu lịch sử tư tưởng, văn hoá Việt Nam giai đoạn đầu thế kỷ cần quan tâm xem xét..
- 1 Xem Nguyễn Văn Hồng, Tân thư, Tân học và nhận thức lịch sử, trong Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (nhiều tác giả), NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1997, tr.38..
- trong Tân thư và xã hội Việt Nam cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX (nhiều tác giả), sđd, tr.228..
- 4 Xem吴汝纶序,天演论,英赫胥黎著,严复譯 Ngô Nhữ Luân tự Thiên diễn luận (Anh, Hách Tư Lê.
- trước, Nghiêm Phục dịch (Thiên diễn luận, tác giả Huxley nước Anh.
- dịch giả Nghiêm Phục) Thương vụ ấn thư quán xuất bản, Bắc Kinh, 1981..
- 5 Xem Du Chính 俞政 .严复著譯研究.Nghiêm Phục trước dịch nghiên cứu, Tô Châu Đại học xuất bản xã, tr.80..
- 中国近代思想史上的天演论.Thiên diễn luận trong lịch sử tư tưởng Trung Quốc cận đại, tạp chí Quảng Đông xã hội khoa học, số 2, 2006..
- 7 Vương Thiên Căn, [天演论] 的传播及其影响, Sự truyền bá và ảnh hưởng của "Thiên diễn luận", Quang minh nhật báo .
- Nghiêm Phục và Phúc Đán công học, tạp chí Phúc Đán Đại học hiệu san, 4/6/1985..
- 9 Vương Thiên Căn, [天演论] 的传播及其影响, Sự truyền bá và ảnh hưởng của "Thiên diễn luận", bđd..
- 10 Học thuyết tân dân của Lương Khải Siêu chịu ảnh hưởng của tư tưởng cạnh tranh sinh tồn do Nghiêm Phục giới thiệu.
- “Trong lý luận của Lương Khải Siêu, dân trí, dân lực, dân đức - các tiêu chuẩn phát triển xã hội được vay mượn từ xã hội học Âu châu và được Nghiêm Phục cải biến khi áp dụng cho Trung Quốc ở cuối thế kỷ XIX, kết hợp hữu cơ với luận điểm về đổi mới ở sách Đại học, một kinh điển Nho gia” Borokh, Khổng giáo và tư tưởng châu Âu cuối thế kỷ XIX đầu thế kỷ XX, Nga văn, NXB “Sách phương Đông”, Viện Hàn lâm Khoa học Nga, 2001, tr.109)..
- “中国近代对西方政治哲学思想的摄取-严复与日本启蒙学者” (Trung Quốc cận đại và việc tiếp nhận tư tưởng triết học Tây phương - Nghiêm Phục và nhà Khai sáng Nhật Bản”, 中国社会科学出版社,NXB Khoa học Xã hội Trung Quốc, 1996, tr.51 - 60..
- "Thiên diễn luận", bđd.