« Home « Kết quả tìm kiếm

Để đường lối cách mạng đúng đắn hơn: Cái nhìn từ lịch sử


Tóm tắt Xem thử

- Lịch sử hiện đại của dân tộc Việt Nam kể từ khi Đảng Cộng sản Việt Nam (ĐCSVN) ra đời, năm 1930, đã chuyển hướng theo một dòng chảy mới.
- Những chặng đường đấu tranh giành độc lập dân tộc và xây dựng đất nước sau đó được định hướng theo lý tưởng cộng sản chủ nghĩa (CSCN), thể hiện trong đường lối lãnh đạo cách mạng của ĐCSVN từ khi ra đời đến nay..
- Đường lối có vai trò quyết định sự thành bại của phong trào cách mạng..
- Trong quá trình lãnh đạo cách mạng Việt Nam đã có những giai đoạn đường lối cách mạng chưa phù hợp với thực tiễn cách mạng.
- Những sự sai lệch trong đường lối và trong việc triển khai thực hiện đường lối đã gây ra những hệ quả không tốt cho phong trào cách mạng, gây ra những tổn thất cho lực lượng cách mạng..
- Từ nhận thức và qua những hoạt động thực tiễn, Chủ tịch Hồ Chí Minh và ĐCSVN đã nhiều lần đấu tranh, điều chỉnh để đường lối cách mạng của Đảng trở lại đúng đắn, phù hợp với thực tiễn và thúc đẩy phong trào cách mạng phát triển..
- Tuy “vắn tắt” song những văn kiện này đã nêu được những vấn đề cơ bản về đường lối cách mạng Việt Nam, tuyên bố về sự lựa chọn con đường cách mạng từ khi Đảng ra đời..
- Chiến lược cách mạng của Đảng là tiến hành “tư sản dân quyền cách mạng và thổ địa cách mạng để đi tới xã hội cộng sản”.
- Con đường tiến lên của cách mạng Việt Nam là thực hiện cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, dân chủ do một đảng cách mạng chân chính của giai cấp công nhân lãnh đạo.
- Nguyễn Ái Quốc đã vận dụng sáng tạo lý luận cách mạng của chủ nghĩa Mác – Lênin vào điều kiện thực tế Việt Nam khi nêu bật tinh thần: Tập trung vào nhiệm vụ chống đế quốc, giải phóng dân tộc, đoàn kết tập hợp mọi lực lượng dưới sự lãnh đạo của giai cấp công nhân để chống đế quốc và tay sai.
- nhấn mạnh đấu tranh giai cấp, chuyên chính vô sản – trong việc chỉ đạo phong trào cách mạng thế giới của Quốc tế Cộng sản (QTCS) sau Đại hội VI (1928) của tổ chức này – khi những tư tưởng cực đoan về đấu tranh giai cấp của Stalin chi phối đường lối của QTCS..
- Lãnh đạo ĐCSVN trong khoảng thời gian từ tháng 10/1930 đến tháng 3/1938 là những nhà cách mạng được QTCS đào tạo tại trường Đại học Cộng sản Phương Đông và được cử về lãnh đạo phong trào cách mạng trong nước như: Trần Phú, Lê Hồng Phong, Hà Huy Tập.
- Sự chỉ đạo, giúp đỡ cách mạng Việt Nam của QTCS trong giai đoạn này khá toàn diện: về tổ chức và tư tưởng chính trị, về đào tạo cán bộ, hỗ trợ tài chính và thiết lập các đường dây liên lạc… Trần Phú và những Tổng bí thư sau đó nhận trách nhiệm cao nhất với QTCS về việc thực hiện những nghị quyết của QTCS trong phong trào cách mạng Đông Dương, không thể làm trái những điều được QTCS chỉ dẫn.
- Tháng 11/1931, Hà Huy Tập trong bài viết Hoạt động của Đảng Cộng sản Đông Dương, đã nhấn mạnh với các đồng chí trong Xứ uỷ Bắc Kỳ: “Tất cả các quyết định của Quốc tế Cộng sản có uy lực đối với tất cả mọi.
- người cộng sản không trừ một ai, và chúng ta chỉ có việc thực hiện, trung thành, chứ không phải xuyên tạc chúng thành những giáo lý cơ hội chủ nghĩa” 3.
- Tư liệu bổ sung về nguồn gốc các tổ chức cộng sản ở Đông Dương.
- Sơ thảo lịch sử phong trào cộng sản ở Đông Dương (1933).
- Đảng Cộng sản Đông Dương và sự phát triển của phong trào cộng sản trong thời kỳ từ Đại hội VI đến Đại hội VII (1934).
- Nghị quyết chính trị của Đại hội (congre’s) lần thứ nhất Đảng Cộng sản Đông Dương .
- Thư của Ban chỉ huy ở ngoài của Đảng Cộng sản Đông Dương (ngày gửi Quốc tế Cộng sản .
- Báo cáo của đồng chí Lê Hồng Phong gửi Quốc tế Cộng sản (1935) 4.
- Sự điều chỉnh này xuất phát từ thực tiễn nóng bỏng của cách mạng Đông Dương trong những năm .
- Tuy vậy, sự điều chỉnh này chưa đủ để những luận điểm cách mạng sáng tạo của Nguyễn Ái Quốc chiếm ưu thế với những quan điểm được coi như “chính thống” đang ngự trị trong Ban Chấp hành Trung ương khi đó 5.
- Sau Đại hội lần thứ VII QTCS (7/1935), trước nguy cơ phát xít và những biến chuyển nhanh chóng trên thế giới và Đông Dương, ĐCSVN có những điều chỉnh chiến lược cách mạng của mình.
- Những nghị quyết của Hội nghị Trung ương tháng 11/1939 và sau đó là Hội nghị Trung ương lần thứ ghi nhận sự trở lại với những quan điểm đúng đắn trong Chánh cương vắn tắt, Sách lược vắn tắt trên những vấn đề quan trọng nhất của cách mạng Việt Nam, đặt nhiệm vụ giải phóng dân tộc, giành độc lập dân tộc lên trên hết.
- Đường lối đúng đắn đó đã đoàn kết được đông đảo quần chúng trong Mặt trận dân tộc thống nhất dưới sự lãnh đạo của Đảng để thực hiện mục tiêu cao nhất: giành độc lập dân tộc..
- Từ sau Hội nghị Trung ương cho đến tháng 8/1945, ĐCSVN đã tập hợp được lực lượng quần chúng đông đảo và tích cực chuẩn bị về mọi mặt để khi thời cơ đến kịp thời lãnh đạo nhân dân tiến hành thắng lợi cuộc Tổng khởi nghĩa tháng Tám 1945, giành độc lập dân tộc, thành lập nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà..
- Để khẳng định vững chắc chiến lược giải phóng dân tộc đúng đắn trong đường lối của mình và đi đến thắng lợi trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, ĐCSVN đã trải qua 10 năm tự nhận thức và đổi mới trong những điều kiện ngặt nghèo của lịch sử.
- Để có bước phát triển trong lý luận và chỉ đạo thực tiễn cuộc cách mạng giải phóng dân tộc, ĐCSVN đã trải qua cuộc đấu tranh giữa cái cũ “tả khuynh”, giáo điều, biệt lập… với cái mới mềm dẻo, đoàn kết, sáng tạo… Cuộc đấu tranh này diễn ra gay gắt ở cấp lãnh đạo cao nhất của Đảng..
- Báo cáo của Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Đông Dương gửi Ban Chấp hành QTCS (ngày 6/4/1938) viết: “Lúc trước đồng chí Sinitchekine [Bí danh của Hà Huy Tập – NV] làm Tổng thư ký, nhưng vì đồng chí có lầm lỗi về chính trị, vì Đảng chủ trương rằng các hộ quần chúng phải tổ chức theo lối công khai và bán công khai, còn đồng chí thì nói: “Tổ chức công khai và bán công khai là đúng, nhưng chỗ nào không có những điều kiện ấy, thì bất đắc dĩ có thể tạm thời tổ chức bí mật.
- Tổng thư ký mới được bầu là Nguyễn Văn Cừ – một người cộng sản trẻ tuổi trưởng thành từ thực tiễn đấu tranh và là một nhà lý luận xuất sắc của ĐCSVN..
- CCRĐ ở Việt Nam đã được xem như những tiêu chí biểu hiện cho tính cách mạng, cho tính cộng sản và cũng là điều kiện cho sự viện trợ… Tất cả tạo nên những áp lực để Luật Cải cách ruộng đất được Quốc hội thông qua tháng 12/1953, trước khi mở màn chiến dịch Điện Biên Phủ ít ngày..
- cả các vùng nông thôn Việt Nam đấu tranh dưới ngọn cờ của ĐCSVN từ năm 1930.
- CCRĐ cũng có thể nhìn nhận như một nỗ lực của cách mạng Việt Nam để hoàn tất mục tiêu “Người cày có ruộng.
- Cũng cần phân biệt những sai lầm trong chủ trương, đường lối với những sai lầm tự phát khi tiến hành tại cơ sở.
- Những sai lầm trong việc thực hiện CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức mang đậm màu sắc tả khuynh đã để lại những tổn thất to lớn cho cách mạng về cả con người và tổ chức.
- Tác phong độc đoán chuyên quyền do đó mà trở nên phổ biến, không đi theo đường lối quần chúng, mà thực tế đã trấn áp quần chúng, nhẹ tuyên truyền giáo dục, buộc quần chúng làm những điều trái với ý muốn, với lương tâm của họ, có khi trái với chân lý và chính nghĩa” 11 .
- Những phản hồi từ thực tiễn đang ở giai đoạn “nóng” nhất của CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức, những ảnh hưởng sau Đại hội XX Đảng Cộng sản Liên Xô đã làm những người lãnh đạo CCRĐ giật mình bừng tỉnh.
- Từ giữa năm 1956, nhiều hội nghị Bộ Chính trị, Ban Bí thư và Ban Chấp hành Trung ương liên tiếp họp với nội dung chủ yếu là bàn về việc sửa sai của CCRĐ và chỉnh đốn tổ chức..
- Đáng chú ý nhất là Hội nghị Ban Chấp hành Trung ương lần thứ 10 (Khoá II) họp hai lần từ tháng 9 tới tháng 11/1956.
- Sau tháng 4/1975, tưởng chừng Việt Nam đã có thời cơ để cất cánh về kinh tế như đã xuất hiện thời cơ chiến thắng về quân sự.
- Cả dân tộc bước vào giai đoạn lịch sử mới với tâm trạng phấn khởi, tự tin về sự toàn thắng của cách mạng Việt Nam..
- Sự nôn nóng muốn có ngay nền kinh tế thuần nhất XHCN đã dẫn đến việc đẩy nhanh thực hiện cuộc cải tạo công thương nghiệp tư bản tư doanh và tập thể hoá nông nghiệp ở miền Nam một cách ồ ạt, vội vã ngay sau ngày giải phóng.
- Mô hình, cơ cấu kinh tế không phù hợp được đặt trên cái nền sản xuất xã hội nghèo nàn lạc hậu và bị chiến tranh tàn phá nặng nề đã dẫn Việt Nam đến cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội sâu sắc..
- Nguyên nhân chính của cuộc khủng hoảng này có thể nêu lên là: Duy trì quá lâu những cơ chế điều hành nền kinh tế đã tỏ ra mất sức sống: coi kế hoạch hoá là đặc trưng quan trọng nhất của kinh tế XHCN, phân bố mọi nguồn lực theo kế hoạch, không thừa nhận sản xuất hàng hoá và cơ chế thị trường, coi thị trường chỉ là một công cụ thứ yếu bổ sung cho kế hoạch.
- không thừa nhận nền kinh tế nhiều thành phần, coi kinh tế quốc doanh và tập thể là chủ yếu.
- xây dựng nền kinh tế khép kín, hướng nội theo hướng thiên về phát triển công nghiệp nặng.
- Cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng vào những năm cuối thập kỷ 70 đến cuối thập kỷ 80 của thế kỷ XX diễn ra ở Việt Nam là có thật và sâu sắc.
- về những nguyên tắc cơ bản của mô hình kinh tế cũ như chế độ công hữu về tư liệu sản xuất (nhất là đất đai), về lao động tập thể, độc quyền của Nhà nước về thương nghiệp và giá cả.
- về quan niệm rằng tư bản là bóc lột, là đối lập với chủ nghĩa xã hội – mà kinh tế thị trường thì sản sinh ra chủ nghĩa tư bản… cùng với thói quen bao cấp đã hình thành lâu năm càng làm trầm trọng hơn cuộc khủng hoảng..
- Về tính chất, đây là cuộc khủng hoảng kinh tế – xã hội.
- Cuộc khủng hoảng này đặt ĐCSVN trước nhiệm vụ lịch sử hệ trọng và khó khăn: phải tạo được bước ngoặt sửa sai cơ bản từ đường lối chính sách, trước hết trên lĩnh vực kinh tế, và cả với tổng thể đường lối, để đứng vững và phát triển..
- Công cuộc Đổi mới ở Việt Nam diễn ra như một tất yếu, trong bối cảnh trên thế giới cùng diễn ra nhiều cuộc cải tổ, cải cách… Ở Liên Xô, các nước XHCN Đông Âu và Trung Quốc những cuộc cải tổ, cải cách đã diễn ra trước đó (từ năm 1978) và vẫn còn đang tiếp tục.
- Cũng như ở các nước này, Đổi mới ở Việt Nam xuất phát từ những bức xúc bên trong.
- Việt Nam có tham khảo những bài học của các nước này song không áp dụng máy móc, cũng không có “cú hích” từ bên ngoài mà chính những khó khăn, bế tắc buộc các cơ sở phải trăn trở, bươn chải tìm lối thoát, phải “bung ra” để tự.
- Công cuộc cải tổ ở Liên Xô bắt đầu từ tháng 4/1985, còn ở Việt Nam việc “phá rào” tự cứu bắt đầu từ trước đó khá lâu..
- Ở tầm vĩ mô, sau nhiều cố gắng cải thiện mô hình cũ – với nhiều phong trào, nhiều chiến dịch, giương lên nhiều lá cờ… cả trong kinh tế và trên lĩnh vực tư tưởng mà không có kết quả, tình hình ngày càng bế tắc, những bộ óc thực tế đã nhận ra rằng không thể tiếp tục duy ý chí.
- Ở các cấp thấp hơn, hội chứng “kinh tế thiếu hụt” ngày càng trầm trọng.
- Nhưng sau một thời gian (từ năm 1979 đến năm 1986) thực tiễn chứng minh rằng cần thiết và có thể đổi mới toàn diện, đã tạo nên bước chuyển biến quyết định trong tư duy lãnh đạo từ những người giữ cương vị cao nhất của Đảng – đánh dấu chính thức và mạnh mẽ từ Đại hội VI của Đảng (12/1986)..
- Thực tiễn đã vượt trước chính sách.
- Chính thực tiễn sinh động đổi mới ở các cơ sở, các địa phương đã cung cấp tư liệu cho việc hình thành đường lối Đổi mới toàn diện của ĐCSVN..
- Từ những tháo gỡ khó khăn trong thực tiễn đã tiến đến những bước tháo gỡ lớn về tư duy kinh tế.
- Nhiều quan điểm bảo thủ, xơ cứng, những định kiến và ngộ nhận về kinh tế hàng hoá, về tư sản, về ngoại bang, về bóc lột đã lùi bước trước cái nhìn thực tế và tự tin hơn về kinh tế thị trường, về hợp tác đa phương và hội nhập, về một sự “cộng sinh” trong môi trường kinh tế mới..
- Đó là con đường ngoạn mục từ “phá rào”, đột phá đến đổi mới, đến sự phát triển khởi sắc kinh tế..
- Cho đến năm 1991, khi đường lối Đổi mới ở Việt Nam đã định hình tương đối rõ nét, công cuộc Đổi mới đã trải qua nhiều bước đột phá có hệ thống:.
- Bước đột phá khai mở chấp nhận kinh tế tư hữu và thị trường tự do tồn tại bên cạnh và đồng hành với “thị trường có tổ chức” từ năm 1979 với Nghị quyết Hội nghị 6 Ban Chấp hành Trung ương (Khoá IV)..
- Bước đột phá chuyển hẳn sang chính sách phát triển nền kinh tế nhiều thành phần có sự điều tiết của Nhà nước và đổi mới tổng thể chính sách kinh tế từ Đại hội ĐCSVN lần thứ VI (12/1986)..
- Hoàn thiện chính sách kinh tế mới, chấm dứt chế độ thống nhất quản lý thu mua phân phối cũ, chuyển nền kinh tế vào cơ chế thị trường có sự điều tiết của Nhà nước với Nghị quyết 6 Ban Chấp hành Trung ương Khoá VI (1989)..
- Đó là quá trình khai mở đường lối phát triển kinh tế hàng hoá nhiều thành phần, đổi mới quản lý nhà nước về kinh tế, tự chủ mở rộng quan hệ kinh tế đa phương, từng bước hội nhập kinh tế khu vực và thế giới..
- Cùng với ba bước đột phá trên tổng thể nền kinh tế là những “vận động”.
- mạnh mẽ về đường lối trên bốn lĩnh vực:.
- Sức sản xuất trong nông nghiệp đã thật sự được giải phóng bằng việc thực thi chế độ tự chủ của kinh tế hộ nông dân.
- Năm 1986, Việt Nam phải nhập khẩu 534.000 tấn gạo, năm 1988 còn phải nhập 395.900 tấn, nhưng chỉ những vụ thu hoạch đầu tiên sau “Khoán 10”, cũng những người nông dân Việt Nam đó, trên chính mảnh đất của họ đã từng canh tác lâu đời đã đưa sản lượng lương thực lên gần 20 triệu tấn và còn dành ra 1,4 triệu tấn để xuất khẩu.
- Luật công ty trách nhiệm hữu hạn và công ty cổ phần được ban hành năm 1990 cho khu vực dân doanh đã xác lập vai trò hợp pháp của kinh tế tư nhân, là bước ngoặt giải phóng sức sản xuất của kinh tế, thương nghiệp ngoài quốc doanh..
- Kinh tế đối ngoại với các nước “khu vực II” (ngoài khối SEV – “khu vực I”) được mở rộng.
- Các xí nghiệp kinh doanh năng động hơn và đã có vai trò quan trọng trong phát triển kinh tế thành thị, khai mở thị trường tự do.
- Giai đoạn lịch sử từ Đại hội IV (1976) đến hết nhiệm kỳ Đại hội VI của ĐCSVN (1991) ghi nhận một đảng cộng sản cầm quyền từ chỗ vấp sai lầm, thất bại nặng nề, đã nhận thức được tình thế và có được giải pháp thuận theo quy luật để vượt qua khủng hoảng, chuyển nền kinh tế vào thế ổn định và phát triển đúng hướng, đạt nhiều thành tựu trong hoàn cảnh khó khăn.
- Nhìn lại những giai đoạn lịch sử, khi đường lối của ĐCSVN không phù hợp với thực tiễn cách mạng có thể thấy một điểm chung, đó là sự sao chép những quan điểm chỉ đạo đường lối từ một “nơi khác” về áp dụng trong thực tiễn Việt Nam một cách máy móc..
- Trong giai đoạn đấu tranh giành độc lập dân tộc là sự sao chép rập khuôn những chỉ thị của QTCS khi thực tiễn cách mạng ở những nước thuộc địa phương Đông (như Việt Nam) hoàn toàn khác so với tình hình cách mạng ở những nước tư bản công nghiệp châu Âu..
- không tính đến những điều mới mẻ từ thực tiễn và căn bệnh kinh nghiệm: phóng đại vai trò của kinh nghiệm và nhận thức cảm tính, phủ nhận tính tích cực của tư duy sáng tạo..
- Cũng nhìn từ những lần điều chỉnh đường lối, sửa sai, khắc phục những hậu quả do sai lầm để lại, có thể thấy ý nghĩa của thực tiễn, của những bài học thực tiễn, của quan điểm thực tiễn khi vận dụng lý luận để xây dựng đường lối lãnh đạo cách mạng của ĐCSVN..
- Thực tiễn cách mạng sinh động là căn cứ để điều chỉnh, sửa chữa những sai lầm, khuyết điểm trong đường lối, để đường lối mới phù hợp hơn với thực tiễn và thúc đẩy thực tiễn phát triển đúng hướng, hợp quy luật.
- Đường lối chỉ đúng đắn khi được xây dựng dựa trên sự am hiểu thực tiễn sâu sắc, bởi những người hoạt động thực tiễn năng động và có khả năng tổng kết thực tiễn..
- Nguyễn Ái Quốc trước khi đưa ra những luận điểm sáng tạo về cách mạng Việt Nam trong những văn kiện của Hội nghị thành lập Đảng đã là một trong những nhà cách mạng có kinh nghiệm và hiểu biết nhất về tình hình các nước thuộc địa lúc đó..
- Hội nghị Trung ương ĐCSVN tháng 11/1939 và Hội nghị Trung ương lần thứ của Đảng đã quyết định điều chỉnh đường lối cách mạng giải phóng dân tộc trên cơ sở nhận thức nhạy bén và đúng đắn tình hình thực tiễn, sau khi đã nhận ra những gì không phù hợp trong việc thực hiện những giáo điều được QTCS chỉ dẫn..
- Thực tiễn nghiệt ngã của những tổn thất nặng nề về cán bộ, về tổ chức trong CCRĐ đã buộc Đảng gấp rút sửa sai trong thời gian ngắn sau đó..
- Khủng hoảng kinh tế – xã hội trầm trọng trong những thập niên 70 – 80 của thế kỷ XX là một thực tế không mong muốn, một lần nữa buộc ĐCSVN điều chỉnh đường lối lãnh đạo cách mạng của mình..
- Trong lịch sử của mình, đã hơn một lần đường lối cách mạng của ĐCSVN tỏ ra không phù hợp với thực tiễn phong trào cách mạng.
- Nhờ phát hiện và sửa chữa kịp thời những sai lầm trong đường lối mà ĐCSVN đã đạt được những thành công..
- Những đòi hỏi bức bách từ cuộc sống thể hiện xu thế đổi mới tiến bộ trong bối cảnh quốc tế mới cũng đang tạo những khả năng để sàng lọc, kiểm chứng tính đúng đắn của đường lối và cả phương pháp hoạch định đường lối, chính sách của ĐCSVN..
- Bài học thực tiễn trong lịch sử xây dựng và điều chỉnh để đường lối lãnh đạo cách mạng đúng đắn hơn vẫn cần được coi trọng..
- 1 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 1998, tr.3 – 4..
- 2 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 2, sđd, tr.95..
- 3 Ngô Vương Anh, Quá trình khẳng định chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc trong đường lối của Đảng giai đoạn tạp chí Nghiên cứu lịch sử, số tr.39..
- 4 Ngô Vương Anh, Quá trình khẳng định chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc trong đường lối của Đảng giai đoạn sđd, tr.38 – 39..
- 5 Xem thêm: Ngô Vương Anh, Quá trình khẳng định chiến lược cách mạng giải phóng dân tộc trong đường lối của Đảng giai đoạn sđd..
- 6 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 6, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2000, tr.385..
- 10 Xem thêm, Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, NXB Chính trị Quốc gia, Hà Nội, 2002, tr.435 – 438..
- 11 Đảng Cộng sản Việt Nam, Văn kiện Đảng toàn tập, tập 17, sđd, tr.430..
- 12 Đào Xuân Sâm, Vũ Quốc Tuấn (Chủ biên), Đổi mới ở Việt Nam nhớ lại và suy ngẫm, NXB Tri thức, Hà Nội, 2008, tr.387 – 389.