« Home « Kết quả tìm kiếm

Di sản phương pháp luận của F.A. Hayek về nghiên cứu các hiện tượng xã hội


Tóm tắt Xem thử

- 2009 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách Trường Đại học Kinh tế, Đại học Quốc gia Hà Nội.
- Hayek về nghiên cứu các hiện tượng xã hội.
- Hayek đã có những đóng góp to lớn cho nhiều chuyên ngành khoa học xã hội khác nhau như kinh tế học kỹ thuật, tâm lý lý thuyết, chính trị học, triết học về kinh tế chính trị, và lịch sử kinh tế.
- Những tiến triển chính yếu về phương pháp luận trong kinh tế học hiện đại cũng sẽ được đề cập nhằm làm nổi bật khả năng nhìn xa trông rộng của ông trong chủ đề này..
- 1 Trung tâm Nghiên cứu Kinh tế và Chính sách (VEPR), Email: [email protected].
- Tầm nhìn của Hayek trên khía cạnh phương pháp luận trong lĩnh vực kinh tế học.
- Bruce Caldwell đã gặp phải một khó khăn khá tế nhị trong việc chọn chủ đề cho bài phát biểu thường niên trong cương vị chủ tịch Hội nghiên cứu lịch sử kinh tế học (History of Economics Society) nhiệm kỳ năm 2000.
- Đây là nội dung mà theo ông là vừa về thiên niên kỷ cũ và cũng về thiên niên kỷ mới của kinh tế học 2.
- Hayek được ghi nhận là học giả có những đóng góp to lớn cho nhiều chuyên ngành khoa học xã hội khác nhau như kinh tế học kỹ thuật, tâm lý lý thuyết, chính trị học, triết học về kinh tế chính trị, và lịch sử kinh tế 3 .
- Sự tồn tại của phân hữu tri thức trong xã hội và các ngụ ý của nó đối với sự phối kết các kế hoạch và kỳ vọng cá nhân trong xã hội đòi hỏi kinh tế học phải có cách tiếp cận khác với cách tiếp cận tân cổ điển truyền thống – cách tiếp cận, mà theo ông, đã bỏ qua yếu tố nền tảng này.
- Chính vì lẽ đó Hayek, một mặt chia sẻ với von Mises về phương pháp praxeo (hay logic về hành động con người) trong phân tích các hiện tượng kinh tế 7 , thì mặt khác, đã tự mình khai triển những ý tưởng của Carl Menger về vai trò của tri thức phân tán trong nền kinh tế và về trật tự tự phát đến mức độ hoàn chỉnh..
- Sau này, cả phương pháp praxeo và ý tưởng về vai trò của tri thức phân tán trong kinh tế và về trật tự tự phát đã trở thành những trụ cột chính bổ xung lẫn nhau để hình thành một trường phái kinh tế Áo khác biệt với các trường phái kinh tế khác.
- Trong phần bốn, tôi sẽ trình bày một số tiến triển chính yếu về phương pháp luận trong kinh tế học hiện đại để làm nổi bật khả năng nhìn xa trông rộng của ông trong chủ đề này.
- Để hiểu được hệ thống phương pháp luận của Hayek đối với việc nghiên cứu các vấn đề xã hội trước hết chúng ta cần tìm hiểu quan niệm của Hayek về các hiện tượng xã hội.
- Ở đây tôi đồng ý với Yeager và Kirzner rằng ý tưởng của Hayek về sự phân hữu tri thức và ý tưởng của Mises về phép toán kinh tế là những khám phá quan trọng bổ trợ lẫn nhau, không thể tách rời về những nhân tố quyết định quá trình vận động của thị trường.
- Chúng là những tiền giả định không thể bỏ qua trong kinh tế học như là một lĩnh vực khoa học về các hiện tượng phức, là những thứ đòi hỏi kinh tế học phải có một hệ thống phương pháp luận riêng cho mình..
- 11 Trong thời gian vài thập kỷ trở lại đây, có một số các nhà kinh tế, tiêu biểu là Daniel Kahneman – người được trao giải Nobel về kinh tế học năm 2002 cùng với Veron Smith, đã đi sâu vào nghiên cứu các khía cạnh tâm lý liên quan đến quá trình ra quyết định của con người.
- Các nghiên cứu của họ tạo thành một nhánh kinh tế có tên gọi là kinh tế học hành vi (behavioral economics).
- thay vì là chỉ dựa trên sự tối ưu hoá độ thoả dụng kỳ vọng trên nền tảng các thông tin đã biết như kinh tế học tân cổ điển vẫn thường giả định.
- Những kết quả nghiên cứu của nhánh kinh tế học này chỉ trái với hệ thống lý thuyết của kinh tế học tân cổ điển bởi vì các giả định về hành vi của trường phái này quá hạn hẹp đến mức cực đoan.
- Chúng ta có thể coi những kết quả nghiên cứu của nhánh kinh tế này như là những giả thuyết phụ trợ đáng tin cậy khác nhau về quá trình tiếp nhận tri thức và học hỏi từ kinh nghiệm như thế nào để lý giải các vấn đề thực tế, như F.A..
- và các hiện tượng xã hội.
- chúng ta khó có thể quan sát được chúng bởi vì chúng là các hiện tượng tâm trí 13 .
- 13 Hayek có lưu ý rằng chúng ta có thể tái dựng lại một hiện tượng xã hội dưới dạng các tình huống thực thông qua các thí nghiệm có kiểm soát như các nhà kinh tế thí nghiệm ngày nay thực hiện.
- Điều khác biệt giữa Hayek và các nhà kinh tế thí nghiệm là, Hayek cho rằng việc tiến hành thí nghiệm trong lĩnh vực kinh tế học không đem lại nhiều các giá trị thực tiễn khi so sánh với chi phí phải bỏ ra để tiến hành thí nghiệm đó (sđd, cùng trang), trong khi các nhà kinh tế thí nghiệm cho rằng việc tiến hành các thí nghiệm đem lại nhiều giá trị cho xã hội trên khía cạnh nó không ngừng tạo ra các tri thức và công cụ mới về việc làm thế nào tiến hành thí nghiệm các hiện tượng kinh tế.
- Theo quan điểm của cá nhân tôi, nhánh kinh tế thí nghiệm đã đem lại những giá trị nhất định cho kho tàng tri thức của nhân loại, nhưng sẽ không thể nhiều như những nhà kinh tế trong nhánh này kỳ vọng, vì các kết quả của nó – do phụ thuộc vào không gian và thời gian – chỉ có sức mạnh giải thích chứ không thể đem lại sức mạnh định lượng cũng như phỏng đoán như các thí nghiệm trong lĩnh vực khoa học tự nhiên..
- Homo economicus (con người hành động dựa trên tư duy tối ưu hoá kết quả muốn đạt được) cũng có thể được xem là hình mẫu tiêu biểu của hành động cá nhân trong kinh tế học vi mô, khiến cho lĩnh vực này vẫn thường được xem là tuân theo chủ nghĩa cá nhân trên khía cạnh phương pháp luận.
- Tuy nhiên, hình mẫu này khi trở thành giả định áp dụng cho tất cả các thành viên trong xã hội đã đẩy kinh tế học tân cổ điển đến trạng thái cực đoan khi xây dựng các mô hình lý thuyết, tại đó các cá nhân bị gộp lại theo các mối quan hệ thống kê chứ không phải là các mối quan hệ nhân-quả-di-truyền.
- 211-26 để nắm được những tranh cãi trong lịch sử cũng như gần đây trong giới kinh tế học thuật liên quan đến chủ nghĩa cá nhân trên khía cạnh phương pháp luận..
- Trong xã hội hiện đại ngày nay, các “mức giá cả”, “tiền tệ”, “chu kỳ kinh doanh”, “nền kinh tế” v.v.
- mà chúng ta cho là đã và đang xuất hiện đều là những thực thể kinh tế nhân tạo được các nhà khoa học tạo dựng nên một cách nhất quán từ những loại phần tử nhất định, gắn kết bởi những nguyên lý nhất định, chứ không phải là những thứ có thể quan sát trực tiếp được.
- 15 Hayek viết: “sự tồn tại của những “tổng thể” này [như “chính phủ”, “quân đội”, “nền kinh tế” v.v.
- tượng xã hội 17 .
- Khái niệm trạng thái cân bằng mà Hayek xây dựng có lẽ là ví dụ tiêu biểu nhất trong số những đóng góp của ông về lý thuyết quá trình hình thành hiện tượng trong lĩnh vực kinh tế..
- Trong bài luận “Economics and Knowledge” (1937), ông đã từ bỏ khái niệm cân bằng tĩnh tại truyền thống trong kinh tế học rằng cân bằng là một trạng thái tại đó mức cung hàng hoá và mức cầu hàng hoá ngang bằng nhau.
- Điều này giúp ông và các nhà kinh tế sau này đưa được các yếu tố về sự truyền tải và.
- sử dụng tri thức vào trong các mô hình lý thuyết kinh tế để mô tả thị trường như là một quá trình liên tục, tại đó các cá nhân khám phá ra các sai sót và khắc phục sai sót để sao cho các kế hoạch của mình tương hợp với kế hoạch của các cá nhân khác 23 .
- Trong kinh tế học, các mức giá cả của các loại hàng hoá khan hiếm chính là một trong các loại quy tắc hành xử như vậy.
- Một số nhà kinh tế, Léon Walras chẳng hạn, đã sử dụng hệ thống các phương trình đồng thời để thể hiện các mối quan hệ chung giữa các mức giá cả và khối lượng hàng hoá được bán hay mua để mô tả sự vận hành của nền kinh tế.
- Chúng ta cần lưu ý, trong ví dụ này, hệ thống phương trình đồng thời của Walras chỉ cho chúng ta biết về mô thức của mối quan hệ kinh tế trong xã hội, nhưng nó lại không cho chúng ta biết gì về một tình trạng cụ thể của nền kinh tế bởi vì chúng ta không thể nào biết được hệ số hay hằng số gắn với các biến số của các phương trình ở một thời điểm cụ thể nào đó 24 .
- Khi các nhà kinh tế nói rằng, giả sử các yếu tố khác giữ nguyên (ceteris paribus assumption), mức tiêu thụ một sản phẩm nào đó sẽ giảm nếu chính phủ đánh thuế tiêu thụ hàng hoá đó, thì đó là một dự báo mô thức vì họ không thể dự đoán được tiến trình sắp tới.
- Tương tự, khi các nhà kinh tế nói về các kết cục cụ thể, chẳng hạn khi một số doanh nghiệp tham gia vào một cartel, thì đó là một giải thích nguyên lý chi phối quá trình tương tác giữa các doanh nghiệp chứ không phải là khẳng định về một tiến trình tương tác diễn ra trong thực tế giữa các doanh nghiệp.
- Phần còn lại của bài viết này được dành để nói về sự phát triển của kinh tế học hiện đại trong thời gian sau Thế chiến thứ II.
- Bởi Hayek hầu như không còn hoạt động trong lĩnh vực kinh tế kỹ thuật chuyên sâu sau khi ông sang Mỹ vào đầu thập kỷ 1950, nên chúng ta rất khó có thể đánh giá được ảnh hưởng của ông lên những nhà kinh tế khác về sau này trên khía cạnh phương pháp luận, trừ một số ít những nhà kinh tế trường phái Áo tiếp tục phát triển những ý tưởng kinh tế kỹ thuật của ông tiêu biểu như Ludwig Lachmann, Insrael Kirzner, Roger Garrison, Gerald O’Driscoll, và nhiều người khác nữa 26 .
- Tuy nhiên, bằng cách đối chiếu khuynh hướng phát triển của kinh tế học trên khía cạnh phương pháp luận với những nguyên lý nền tảng cũng như luận đề quan trọng trong hệ thống phương pháp luận của Hayek được trình bày ở trên chúng ta có thể thấy được một phần nào đó tầm nhìn trước thời đại của ông khi coi kinh tế học là một chuyên ngành nghiên cứu về hiện tượng phức..
- Trên khía cạnh nguyên lý nền tảng, ngày nay việc coi đối tượng nghiên cứu của kinh tế học là hiện tượng phức đã nhận được sự đồng thuận rộng rãi.
- Nhóm các nhà kinh tế theo nhánh lý thuyết hiện tượng phức như Brian Arthur, Steven N.
- Các nhà kinh tế vi mô, từ lý thuyết trò chơi, chẳng hạn Robert.
- Axelrod hay Martin Shubik 28 , cho đến lý thuyết kinh tế thể chế mới như Oliver Williamson 29 , cũng khẳng định như vậy.
- Các nhà kinh tế vĩ mô luôn xác nhận các hiện tượng kinh tế thực rất phức tạp và các mô hình của họ là nhằm để nắm bắt được những mối quan hệ quan trọng nhất đằng sau các hiện tượng – bất kể rằng hầu hết các mô hình của họ đều là các mô hình tĩnh tại và do vậy, loại bỏ một cách có hệ thống yếu tố doanh nhân, yếu tố cấu trúc tư bản, cũng như yếu tố thời gian khỏi các mô hình của mình 30 .
- Chính Alan Greenspan, một nhà chính sách kinh tế kỳ cựu của Mỹ, cũng đã phải lên tiếng cảnh báo rằng hiện tượng kinh tế là hiện tượng phức 31.
- Việc chấp nhận kinh tế học là khoa học về hiện tượng phức còn thể hiện gián tiếp qua việc giới kinh tế gia từ lâu đã không còn coi trọng khả năng bác bỏ lý thuyết trên cả khía cạnh triết học và thực nghiệm.
- Xét trên khía cạnh triết học về khoa học, cách tiếp cận dựa trên chủ nghĩa cấu trúc đối với các lý thuyết khoa học (structualist approach to scientific theories) của Frederick Suppe và mô hình các chương trình nghiên cứu khoa học (methodology of scientific research programs) của Imrés Lakatos đã dần thay thế cho mô hình khả phủ (falsibility) của Karl Popper để quyết định đâu là lý thuyết kinh tế thực sự có giá trị và đâu là không có giá trị 32 .
- Trên bình diện thực nghiệm, giới kinh tế lượng đã không coi việc kiểm.
- 29 Có thể tham khảo tác phẩm của một nhà nghiên cứu hàng đầu của nhánh kinh tế thể mới, Williamson, O..
- Williamson đã coi ý tưởng tính phức của các hiện tượng kinh tế mà F.A.
- 31 Trong một bài phát biểu về chính sách tiền tệ Alan Greenspan nhận xét: “Vấn đề của chúng ta phải đương đầu… không phải là sự phức tạp trong quá trình ra quyết định chính sách của chúng ta, mà là sự phức tạp kinh khủng của một nền kinh tế toàn cầu, nơi các mối quan hệ ẩn đằng sau liên tục thay đổi” (Greenspan, Alan (2004), ‘Risk and Uncertainty in Monetary Policy’, The American Economic Review, 94(2), tr.
- Vai trò chính của nó giờ đây là tìm cách đo lường các tham số (parameters) được các lý thuyết kinh tế mô tả trên cơ sở những dữ liệu thống kê 33 .
- Ngay cả nhánh kinh tế học thí nghiệm (experiemental economics), một nhánh được xem là có nỗ lực lớn nhất trong việc khả phủ các lý thuyết kinh tế, cũng đã phải thừa nhận những khó khăn khó có thể vượt qua để kiểm nghiệm bác bỏ những lý thuyết liên quan.
- 33 Xem một trích đoạn gần đây: “Kinh tế lượng có nhiều mục tiêu dính dáng rất ít hoặc chẳng dính dáng gì đền việc kiểm nghiệm các lý thuyết.
- Ngay cả một nhà kinh tế lượng hàng đầu như Hendry (1980, tr.
- 27-28), người luôn nói rằng ba qui tắc vàng của kinh tế lượng là “kiểm nghiệm, kiểm nghiệm, kiểm nghiệm” cũng không quan tâm lắm đến việc kiểm nghiệm trực tiếp các lý thuyết thông qua việc thoả mãn các thủ tục thống kê” (Hoover , K.
- “công nghệ” thí nghiệm, nhằm giảm bớt các lỗi trong thí nghiệm và qua đó bổ trợ cho các nghiên cứu lý thuyết trong kinh tế học 34 .
- Liên quan đến hệ luận thứ nhất, kinh tế học hiện đại sau Thế chiến thứ II về cơ bản đã rời bỏ chủ nghĩa duy lịch sử mà Hayek và Popper phê phán trong thập niên 1940.
- Chỉ có rất ít người còn tiếp tục theo đuổi kinh tế học Mác-xít và kinh tế học thể chế (cũ.
- các trường phái kinh tế thu hút được khá nhiều nhà kinh tế trong giai đoạn đầu của thế kỷ XX, vốn tin rằng lịch sử thực sự có quy luật hoặc ta có thể khám phá ra các quy luật kinh tế bằng cách nghiên cứu mang tính qui nạp các hiện tượng lịch sử.
- Các nhà kinh tế sau này, dù nghiên cứu về kinh tế vĩ mô hay vi mô, dùng mô hình toán học hay thuần tuý ngôn từ, đều xây dựng các lý thuyết của mình bằng phương pháp diễn dịch từ những tiền đề ban đầu.
- Kinh tế học tân cổ điển là một ví dụ tiêu biểu.
- Từ một số những tiên đề ban đầu về sở thích và công nghệ sản xuất các nhà kinh tế đã xây dựng được cả một hệ thống lý thuyết về cung, cầu, thị trường, v.v.
- Các nhà kinh tế thuộc trường phái này cũng đã sử dụng các lý thuyết này để giải thích các hiện tượng kinh tế ở mọi thời đại và mọi địa phương, nơi các điều kiện mà các lý thuyết đó mô tả xuất hiện.
- Hay nói cách khác, luận đề mà Hayek bảo vệ về sự tồn tại của hệ thống lý thuyết không phụ thuộc vào lịch sử được chấp nhận rộng rãi trong kinh tế học hiện đại..
- Từ vài thập niên cuối thế kỷ XX, kinh tế học đã bắt đầu tập trung vào việc nghiên cứu các quy tắc hành xử trong xã hội.
- Các nhánh lý thuyết kinh tế như kinh tế thể chế mới, lý thuyết.
- Trong bài luận này Smith đã dùng luận đề Duhem-Quine và một số nội dung của cách tiếp cận theo chủ nghĩa cấu trúc (xem chú thích số 30 ở trên) để bảo vệ vị trí của kinh tế học thí nghiệm trong lĩnh vực kinh tế học nói chung..
- Chúng ta không tái tạo quá khứ.
- hiện tượng phức, lý thuyết trò chơi và kinh tế thí nghiệm đều dành sự chú ý đặc biệt vào việc nghiên cứu về vai trò cũng như sự hình thành của các thể chế trong xã hội.
- Có thể nói hệ luận của Hayek về mục tiêu của kinh tế học nên hướng tới việc nghiên cứu vai trò của các quy tắc ứng xử là một trong những gợi ý quan trọng nhất mà Hayek đã đưa ra đối với các nhà kinh tế thế hệ sau này 36.
- Ý tưởng của Hayek rằng lý thuyết kinh tế phải là lý thuyết về quá trình không được chú ý nhiều trong kinh tế học hiện đại, nơi phân tích cân bằng tĩnh vẫn chiếm vị trí thượng phong..
- Trước hết cần phải khẳng định rằng Hayek không phản đối việc sử dụng toán học trong việc mô tả các mối quan hệ tương đối bền vững đằng sau một loại hiện tượng kinh tế nhất định nào đó 37 .
- Tuy nhiên, Hayek lại nghi ngờ khả năng của toán học trong việc mô tả quá trình hình thành cũng như biến đổi của hiện tượng kinh tế trong thế giới thực, nơi chúng ta không thể bỏ qua các yếu tố bất trắc của môi trường, sự khiếm khuyết tri thức của con người, khả năng sáng tạo và học hỏi của con người, và sự điều chỉnh các kế hoạch liên tục của các cá nhân sao cho tương hợp lẫn nhau 38 .
- Bên cạnh những nhà kinh tế thuộc trường phái.
- 75-84, để thấy được vị trí của ý tưởng phân hữu tri thức trong kinh tế học thể chế mới.
- Toán học có thể – và có lẽ đúng thế trong kinh tế học – là công cụ hoàn toàn không thể tách rời để mô tả các thể loại nhất định các mối quan hệ có cấu trúc phức tạp, dù rằng có thể chúng ta không có cơ hội để biết được các trị số của các tham số (magnitudes) cụ thể (được gọi bằng một cái tên gây nhầm lẫn là “hằng số”) có mặt trong các công thức mô tả các cấu trúc đó.” (chú thích 8, ch.
- 38 Có thể tham khảo quan điểm của Hayek về vai trò và giới hạn của toán học trong kinh tế học trong đoạn trích dưới đây: “Do đó, việc một nhà kinh tế danh tiếng như giáo sư Schumpeter khinh suất sa vào bẫy tạo ra bởi tính hai mặt của thuật ngữ “dữ liệu đã biết” hầu như không thể biện bạch rằng đó chỉ là một lỗi nhỏ.
- kinh tế Áo, những người kiên trì tiếp tục hướng nghiên cứu coi lý thuyết kinh tế phải là lý thuyết về quá trình thị trường 39 , nhiều nhóm học giả đã bắt đầu quay trở lại quan điểm này trong vài thập kỷ gần đây.
- Khác với các mô hình phương trình đồng thời trong phân tích cân bằng của kinh tế học tân cổ điển chính thống, các mô hình toán học của lý thuyết trò chơi đã mang nhiều đặc điểm của lý thuyết quá trình như xem xét đến các yếu tố chủ quan trong kế hoạch hành động của các tay chơi, nhìn nhận sự hình thành của nhiều trạng thái cân bằng là kết quả của quá trình tương tác mang tính chiến lược khác nhau của các tay chơi, và đã đưa được yếu tố học hỏi vào trong mô hình phân tích.
- Luận đề cuối cùng trong hệ thống phương pháp luận của Hayek về khả năng dự báo hạn chế của các lý thuyết kinh tế có lẽ là điều khó được giới kinh tế tin vào chủ nghĩa thực chứng chấp nhận nhất - và điều này, như Caldwell nhận xét, đáng được coi là “một trong những điều kỳ bí nhất của thế kỷ XX” 42 .
- Kinh tế lượng thực sự rơi vào khủng khoảng vào cuối thập kỷ 1970, khi các dự báo của các mô hình của nó tỏ ra thất bại, và đặc biệt là sau khi Robert Lucas đưa giả thiết kỳ vọng thuần lý (rational expectation) để phê phán việc sử dụng các mô.
- Bất kỳ phương pháp tiếp cận nào, ví dụ phương pháp đuợc sử dụng nhiều trong kinh tế toán với hệ thống các phương trình đồng thời, mà để giải được chúng thì cần giả thiết tri thức của mọi người tương ứng với các dữ kiện khách quan của một trạng thái nhất định nào đó, sẽ loại bỏ một cách có hệ thống vấn đề được xem là nhiệm vụ chính mà chúng ta phải giải thích.
- Nhưng khi nó được đẩy tới điểm, khiến cho một số nhà tư tưởng hàng đầu của chúng ta tin rằng trạng thái mà nó mô tả có liên quan trực tiếp với lời giải đáp cho những vấn đề thực tiễn thì đó là đỉnh điểm mà chúng ta phải ghi nhớ rằng: nó chẳng đụng chạm gì hết tới quá trình xã hội, và rằng: nó chẳng qua chỉ là một công cụ sơ đẳng, hữu ích cho công việc nghiên cứu vấn đề kinh tế chính yếu của xã hội.” (Hayek The Use of Knowledge in Society’, trong Individualism and Economic Order, Chicago: The University of Chicago Press, tr.
- 41 Về sự gần gũi giữa lý thuyết trò chơi với các nguyên lý của trường phái kinh tế Áo, đặc biệt của Hayek, tham khảo Foss, N.
- hình kinh tế lượng cho việc hoạch định chính sách 43 .
- Lucas lập luận rằng, các mô hình kinh tế lượng dựa vào các quyết định của các thành viên trong xã hội để ước lượng các biến số..
- Sau thập kỷ 1970, kinh tế lượng đã có nhiều điều chỉnh về phương pháp luận, thậm chí theo các nhánh đối lập nhau, như cách tiếp cận rút gọn mang tính xác suất (probabilistic-reduction approach) nói chung và của trường phái kinh tế London (LSE approach) nói riêng hướng vào việc xử lý số liệu, xây dựng các cấu trúc mối quan hệ số liệu thuần tuý, và giảm thiểu sự phụ thuộc của mô hình thực nghiệm với lý thuyết, hoặc như cách tiếp cận hiệu chuẩn (calibration approach) của nhóm gắn với hai nhà kinh tế Finn Kydland và Edward Prescott, đối lập với nhánh LSE, hướng tới việc gắn chặt các mô hình định lượng với lý thuyết, tạo ra những nền kinh tế “nhân tạo” để kiểm nghiệm lý thuyết 44 .
- Ngay cả với những cố gắng như thế thì những kết quả của kinh tế lượng vẫn chẳng khả quan hơn nhiều.
- Sau khi nghiên cứu tỉ mỉ quá trình phát triển của kinh tế lượng, Roger Backhouse kết luận như sau:.
- “bất chấp nỗ lực khổng lồ, bất chấp tốc độ tăng chóng mặt của năng lực tính toán [nhờ máy điện toán], và bất chấp sự phát triển của các kỹ thuật thống kê ngày càng phức tạp, kinh tế lượng đã thất bại trong việc đưa ra những quy luật định tính (quantitative laws), điều đã từng được rất nhiều nhà kinh tế tin tưởng là có thể” 45 .
- Có lẽ đã đến lúc giới kinh tế lượng cần phải tỉnh táo nhìn lại niềm tin vào chủ nghĩa thực chứng và suy xét lại một cách nghiêm túc luận điểm của Hayek rằng chúng ta chỉ có thể tiến hành dự báo mô thức chứ không thể dự báo được sự kiện bởi vì tính phức của các sự kiện xã hội..
- Và cũng sẽ không quá bất ngờ nếu như: “hoàn toàn có thể là kinh tế học của thể kỷ XXI sẽ còn chịu ảnh hưởng của Hayek nhiều hơn kinh tế học của thế kỷ XX” 46.
- Chúng ta hãy một lần nữa lắng nghe Hayek đúc kết về vai trò của kinh tế học: “điều mà chúng ta có thể biết trong lĩnh vực kinh tế học thực sự ít ỏi so với kỳ vọng của người đời” 47