« Home « Kết quả tìm kiếm

GÓP THÊM Ý KIẾN VỀ NGỮ PHÁP, NGỮ NGHĨA CỦA HAI KIỂU DANH NGỮ: hạt dưa..., một hạt dưa...


Tóm tắt Xem thử

- GÓP THÊM Ý KIẾN VỀ NGỮ PHÁP, NGỮ NGHĨA CỦA HAI KIỂU DANH NGỮ: hạt dưa.
- Trong tạp chí Ngôn ngữ số 11 năm 2001, chúng tôi có viết bài "Ngữ pháp, ngữ nghĩa của hai kiểu danh ngữ: hạt dưa.
- hạt dưa, hạt bí, hạt cà, hạt rau, hạt na.
- Hiện tượng nêu trên đây, thực tế, trừ sách Ngữ pháp tiếng Việt của Gs..
- Nguyễn Tài Cẩn có đề cập và biện giải về mặt ngữ pháp một cách hiển ngôn, còn hầu hết các nghiên cứu khác về ngữ pháp tiếng Việt nói chung, về danh ngữ nói riêng, đều đã bỏ qua.
- Trong phần nói về hai bộ phận trung tâm của danh ngữ từ trang 216 đến 223 [xem 3.
- Trung tâm của danh ngữ không phải là một từ mà là một bộ phận ghép gồm hai vị trí nhỏ là T1 và T2, trong đó T1 là trung tâm về mặt ngữ pháp, trung tâm chỉ về đơn vị đo lường..
- Có một số danh từ chuyên dùng để chỉ đơn vị và cũng có những danh từ lâm thời chuyển làm đơn vị mà phần lớn bắt nguồn từ danh từ thường.
- trường hợp cần xác định có phải một danh từ bình thường lâm thời chuyển làm danh từ chỉ đơn vị hay không, chúng ta phải có những kiểm nghiệm để kết luận..
- Nếu đằng trước danh từ trung tâm T1 mà không thêm được một từ chỉ số lượng nào nữa thì T1 đó không phải là từ chỉ đơn vị.
- thịt: không phải danh từ đơn vị..
- cây: danh từ chỉ đơn vị..
- Nếu đằng trước T1 mà thêm từ chỉ số lượng vào được, thì nói chung T1 đó là danh từ chỉ đơn vị, nhưng không phải bao giờ cũng vậy, và ta lại phải có kiêm nghiệm bổ sung:.
- Nếu không thêm được vào trước T1 đó một danh từ chỉ đơn vị khác nữa, thì T1 là danh từ chỉ đơn vị.
- Kết luận: hạt là danh từ chỉ đơn vị..
- Nếu còn thêm được vào trước T1 một danh từ chỉ đơn vị khác nữa, thì T1 không phải là danh từ chỉ đơn vị.
- Kết luận: hạt không phải là danh từ chỉ đơn vị..
- Như vậy, trên bình diện cấu trúc của danh ngữ và khả năng kết hợp giữa các thành tố của chúng, vấn đề đã được miêu tả rõ: chúng ta không thể nói: *một đĩa hạt muối, *một thúng hạt gạo là vì trong các danh ngữ một hạt muối, một hạt gạo....
- này đã có hạt là danh từ chỉ đơn vị rồi..
- Tuy nhiên, vấn đề sẽ trở nên rõ ràng hơn khi chúng ta tìm đến nguồn cội sâu xa của nó ở chính cơ cấu nghĩa từ vựng và nghĩa ngữ pháp của danh từ trung tâm trong các danh ngữ đó..
- Trước hết, có thể nói rằng, các danh ngữ thuộc loại A.
- hạt dưa, hạt bí, hạt cà.
- Thật ra, giữa các loại danh ngữ này có hai điểm giống nhau căn bản:.
- Danh từ trung tâm trong mỗi danh ngữ đều có danh từ làm định ngữ hạn định đứng liền kề đằng sau..
- Danh từ làm định ngữ cho trung tâm đều là những danh từ khối, không trực tiếp đếm được, không có khả năng kết hợp với các từ mấy, mỗi, một, từng, vài, đôi, dăm, những.
- Dưới đây, chúng tôi sẽ phân tích từ danh từ trung tâm danh của ngữ rồi đến danh từ làm định ngữ cho trung tâm trong các danh ngữ hữu quan..
- Danh từ trung tâm của các danh ngữ loại A.
- Trong các danh ngữ loại A..
- Về mặt ngữ pháp, trong các danh ngữ loại A.
- hạt là danh từ đơn vị dùng để.
- "phân lập về phương diện hình thức tồn tại trong không gian, trong thời gian hay trong một chiều nào khác do ngôn ngữ phân xuất trong khi cấu trúc hoá thế giới thành những đơn vị có vật tính (thingness) nghĩa là có tính cá thể hay được coi như những cá thể".
- Như vậy, khi hiện diện trong các danh ngữ loại A, nghiã phái sinh S2: "Vật có hình giống như hạt gạo, hạt ngô".
- của danh từ hạt đã tham gia vào sự kết hợp từ vựng của nó với danh từ muối, cát, sạn, sỏi, gạo.
- Nói rõ hơn, chính nghĩa phái sinh S2 này làm cho hạt kết hợp (về mặt) từ vựng được với những danh từ như muối, cát, sạn, sỏi, gạo.
- Nhờ thế mà danh từ hạt mới có thể kết hợp với các số từ, lượng từ như mấy, mỗi, một, từng, vài, đôi, dăm, những (Ví dụ: một hạt, mấy hạt, mỗi hạt, từng hạt, vài hạt, đôi hạt, dăm hạt, những hạt.
- phân biệt với danh từ khối, là loại danh từ không có khả năng ấy (không trực tiếp đếm được) [xem 6]..
- Điều đó có nghĩa rằng, về mặt ngữ pháp, tại các danh ngữ loại A hạt có ý nghĩa chỉ đơn vị, để làm cho cái khối (loại/ chủng/ loài) do các danh từ không trực tiếp đếm được đứng sau nó biểu thị (muối, cát, sạn gạo.
- và vì thế, cương vị, chức năng, cùng với các ứng xử ngữ pháp của nó không khác gì so với viên (sỏi), hòn (gạch), tảng (đá), cục (đất), bức (tranh), ngôi (sao), tấm (vải), que (kem), mảng (tường), cây (đa), con (gà), cái (chổi), chiếc (dép.
- Trong các danh ngữ lọai B, B' và C..
- Trước hết phải thấy rằng: danh từ hạt ở đây cũng như danh từ lá, cây, quả, ngọn.
- đều là những danh từ mà về mặt ý nghĩa ngữ pháp, chúng đều có hai nét nghĩa khái quát quan trọng (xem [ 6.
- Chính hai nét nghĩa này khiến cho danh từ hạt có ba khả năng ngữ pháp:.
- Khi thì hiện diện với tư cách một danh từ khối, không trực tiếp đếm được, đóng vai trò làm trung tâm danh ngữ (loại B).
- Khi thì hiện diện với tư cách một danh từ đơn vị, trực tiếp đếm được, có thể đứng làm trung tâm danh ngữ (loại B')..
- Khi thì là danh từ khối, không trực tiếp đếm được, đóng vai trò làm thành tố chính của một “tiểu danh ngữ” làm định ngữ cho danh từ trung tâm của danh ngữ (loại C)..
- Vì vậy, ý nghĩa ngữ pháp của danh từ hạt trong các danh ngữ loại B như: lấy hạt dưa, mua hạt dưa, phơi hạt dưa, rửa hạt dưa, cân hạt dưa, gói hạt dưa, gieo hạt dưa, rang hạt dưa, cắn hạt dưa.
- và trong các danh ngữ loại C như: đĩa hạt dưa, nhúm hạt dưa, hộp hạt dưa, rá hạt dưa, thúng hạt dưa, yến hạt dưa, lạng hạt dưa.
- là ý nghĩa của danh từ khối, thuộc loại chỉ chất liệu, không trực tiếp đếm được, không giống với ý nghĩa ngữ pháp của nó trong các danh ngữ loại B': lấy dăm hạt dưa, mua mươi hạt dưa, phơi hai hạt dưa, rửa dăm chục hạt dưa, cân một nghìn hạt dưa, gói mấy hạt dưa, gieo vài hạt dưa, rang một trăm hạt dưa, cắn một hạt dưa… (là ý nghĩa của danh từ chỉ đơn vị, trực tiếp đếm được, không thuộc loại chỉ chất liệu)..
- Những thực tế này buộc chúng ta phải thừa nhận rằng trong các danh ngữ loại B, ý nghĩa ngữ pháp và chức năng của danh từ hạt cùng kiểu với ý nghĩa ngữ pháp, chức năng và thái độ ngữ pháp của gà, bò, tôm, cá, cua, thằn lằn… trong các danh ngữ chẳng hạn: gà nhà, bò rừng, tôm đồng, cá sông, cua biển, thằn lằn sa mạc… còn trong các danh ngữ loại C thì ý nghĩa ngữ pháp và chức năng của danh từ hạt lại chẳng khác gì với ý nghĩa ngữ pháp, chức năng và ứng xử ngữ pháp của những danh từ khối, không đếm được khác như gà, mèo, tường, bút, đĩa, thịt, dầu, bom, cháo… trong các danh ngữ như: con gà nhà, con mèo rừng, bức tường đất, chiếc bút tre, cái đĩa nhôm, cân thịt lợn, lít dầu dừa, quả bom tấn, bát cháo lươn….
- Danh từ làm định ngữ cho trung tâm trong các danh ngữ loại A.
- mà chúng ta đang xét, đều là danh từ khối, không trực tiếp đếm được.
- trong các danh ngữ loại B và B’.
- không khác gì so với các danh từ như gạo, thóc, tấm, cám, đất, nước, rượu, dầu, vịt, gà, trâu, ngựa, bò, dê, chó, mèo.
- trong các danh ngữ loại C.
- và chẳng khác gì muối, cát, sạn, sỏi, bụi...trong các danh ngữ loại A..
- Tuy nhiên, sự giống nhau ở danh từ làm định ngữ hạn định cho danh từ trung tâm trong các danh ngữ như thế không phải là chìa khoá của vấn đề chúng ta đang quan tâm.
- Cái quyết định sự khác biệt giữa loại danh ngữ A một bên, với bên kia, loại B và B', khiến cho chúng ta có được: hạt bí, hạt dưa.
- vẫn chính là ở danh từ trung tâm của chúng: danh từ hạt..
- là danh từ có hai nét nghĩa ngữ pháp khái quát quan.
- luôn phải đi liền và gắn bó mật thiết với những đặc trưng về hình thức của vật được biểu thị, nhưng về mặt nghĩa từ vựng, danh từ hạt (và những từ cùng kiểu) thường hay được dùng để biểu thị những vật có hình thức được tiếng Việt, người Việt cho là tương tự với sở chỉ (hạt, lá, cây, quả, ngọn.
- đều là các danh từ khối, không có biểu hiện về số, nên lúc này, sự hiện diện của các danh từ đơn vị như: hạt, lá, cây, quả, ngọn, viên, hòn, tảng, cục, bức, ngôi, tấm, que, mảng, con, cái, chiếc.
- Khi danh từ hạt (và các đồng loại của nó) được sử dụng như vậy, một hệ quả quan trọng về mặt ngữ pháp đã xảy ra.
- Lúc này, ngay lập tức, danh từ hạt (và các danh từ đồng đẳng của nó) hiện diện như các danh từ đơn vị chính danh khác về đặc trưng và cương vị, ứng xử ngữ pháp.
- bởi vì tuy vốn là danh từ khối, biểu thị chất liệu, không trực tiếp đếm được, nhưng khi trong ý nghĩa từ vựng của chúng đã có một nghĩa chuyển (nghĩa phái sinh) được xây dựng nhờ phương thức chuyển nghĩa ẩn dụ (như đã nói tại điểm 2.1.1.
- bên trên), thì chính cái nghĩa từ vựng phái sinh đó đã làm biến động ý nghĩa ngữ pháp của chúng, khiến cho chúng đượcảư dụng với tư cách là những danh từ đơn vị..
- từ vựng đã dẫn đến sự thay đổi đặc trưng ngữ pháp cũng như những ứng xử ngữ pháp của các danh từ trung tâm hữu quan, khiến cho chúng chuyển từ tiểu loại danh từ khối sang tiểu loại danh từ chỉ đơn vị.
- Sự biến đổi ở nghĩa từ vựng của danh từ trung tâm đã “đi trước một bước” để tạo tiền đề cho những thay đổi về thái độ ngữ pháp, đặc trưng ngữ pháp của chúng..
- Quan sát các danh ngữ, chẳng hạn: vài hạt muối, một quả dưa, dăm ngọn rau, một cành đào, vài cái mũ, hai con gà, một chiếc đũa, những hòn đá, mỗi viên bi, vài cây bút, một cục tẩy, dăm que kem, năm mét vải, vài lít rượu, một cân thịt.
- chúng ta sẽ thấy những đặc điểm, cương vị và ứng xử ngữ pháp của hạt, cây, lá, quả, ngọn.
- là vì các biểu thức ngôn ngữ này không phù hợp với cấu trúc của danh ngữ tiếng Việt: Tại mỗi một vị trí vốn được phân bố chặt chẽ của danh ngữ, không thể có hai thành tố đồng đẳng cùng hiện diện để cùng thực hiện một nhiệm vụ..
- Điều này không chỉ đúng cho các danh ngữ đang xét, mà còn đúng với tất cả các danh ngữ hữu quan cùng loại như.
- hoặc cách nói danh ngữ gồm có số từ trực tiếp kết hợp với danh từ khối như “Thằng Bờm có cái quạt mo, Phú ông xin đổi ba bò, chín trâu”.
- Vấn đề ở cấu trúc sâu của các danh ngữ thuộc các kiểu được đề cập trên đây là như sau:.
- Khi hạt là danh từ đơn vị, làm trung tâm danh ngữ thì về mặt ngữ pháp, nét nghĩa [H] (hình thức, đơn vị, đếm được) của nó được bảo toàn, nét nghĩa [Ch] (chất liệu, đặc trưng) của nó bị triệt tiêu.
- và ngược lại, có thể nói: khi nét nghĩa [H] của hạt được bảo toàn, nét nghĩa [Ch] của nó bị triệt tiêu, thì hạt có thể dùng làm danh từ chỉ đơn vị..
- Từ đây, quan sát trên cấu trúc bề mặt của các danh ngữ, chúng ta sẽ thấy: khi có hai danh từ tạo thành một danh ngữ mà trung tâm danh ngữ ấy là một danh từ đơn vị (dù là danh từ đơn vị "chính danh".
- hay chuyển đổi từ một nguồn gốc khác tới với những điều kiện nhất định nào đó) để phân lập cái khối (loại/ giống/ loài) được biểu thị bằng danh từ khối, không đếm được, đứng đằng sau, làm định ngữ hạn định cho nó (danh từ đơn vị - trung tâm đó), thì không thể có bất kỳ một danh từ đơn vị nào khác kết hợp thêm vào đằng trước nó được nữa..
- Ngược lại, nếu danh từ trung tâm trong các danh ngữ như thế không đụơc dùng với ý nghĩa đơn vị để phân lập, để "tính đếm".
- các khối/ loài…, mà được dùng với ý nghĩa và tư cách của danh từ khối, thì về mặt ngữ pháp, ở cấu trúc sâu, nét nghĩa [Ch] được bảo toàn.
- (Những danh ngữ này không khác về kiểu loại với những danh ngữ như: thịt lợn - một cân thịt lợn.
- Trong trường hợp cụ thể của các danh ngữ tổ chức theo kiểu B hoặc C kể trên, nét nghĩa ngữ pháp [H]: (hình thức, chỉ đơn vị, trực tiếp đếm được) của danh từ hạt bị triệt tiêu.
- nảy mầm thì cho cây con) là cái quyết định năng lực kết hợp từ vựng của nó và làm cho nó được dùng với tư cách một danh từ khối chính danh, không những có thể kết hợp được với một danh từ đơn vị khác ở đằng trước, mà còn cần phải kết hợp với danh từ đơn vị đó, nếu muốn trực tiếp tính đếm, đo lường, muốn "vật hoá".
- cái khối sự vật hữu quan (hạt) do danh từ hạt biểu thị..
- Cái gốc của những điều đang xét là ở chỗ: những biến chuyển trong ý nghĩa từ vựng đã dẫn đến những đổi thay quan trọng trong ý nghĩa ngữ pháp, thái độ ngữ pháp của danh từ trung tâm, chứ không phải là ở chỗ các danh từ khối đứng sau làm định ngữ cho nó.
- Danh từ hạt là một từ đa nghĩa từ vựng, đồng thời cũng là một danh từ khối, vừa chứa nét nghĩa phản ánh (những) đặc trưng hình thức, trực tiếp đếm được [H], laị vừa chứa nét nghĩa phản ánh (những) đặc trưng nội dung, chất liệu [Ch].
- cho nên tuỳ thuộc vào chỗ lựa chọn và đưa nghĩa từ vựng nào để tham gia kết hợp với từ khác trên ngữ lưu mà nó có thể được dùng làm danh từ chỉ đơn vị hay không.Vì thế, cấu trúc nghĩa ngữ pháp của hạt sẽ là:.
- Ch] khi nó hiển lộ nghĩa từ vựng S2, đứng làm danh từ đơn vị - trung tâm trong những danh ngữ như: một hạt muối, một hạt cát, một hạt bụi, một hạt sạn, một hạt cơm.
- và hiển lộ nghĩa từ vựng S1, đứng làm danh từ đơn vị - trung tâm trong các danh ngữ như: một hạt dưa, một hạt bí, một hạt rau, một hạt dẻ, một hạt cà....
- Ch] khi nó hiển lộ nghĩa từ vựng S1, đứng làm danh từ khối - trung tâm trong những danh ngữ như: hạt dưa, hạt bí, hạt rau, hạt dẻ, hạt cà....
- Như vậy, dựa vào sự khu biệt căn bản: danh từ đơn vị (trực tiếp đếm được.
- danh từ khối (chỉ chất liệu, không trực tiếp đếm được), phân tích cho được những đặc điểm ngữ pháp ngữ nghĩa ở cấu trúc sâu của chúng, quan tâm đầy đủ đến sự tương tác giữa cơ cấu nghĩa từ vựng với nghĩa ngữ pháp của chúng, chúng ta không gặp nhiều khó khăn trong việc tìm căn cứ thực tế để phân tích và chỉ ra những nét giống nhau, nét khác biệt trong tổ chức ngữ pháp, ngữ nghĩa giữa các kiểu danh ngữ A.B.B’.C nói trên cũng như các danh ngữ khác cùng kiểu của tiếng Việt nói chung./..
- Diệp Quang Ban: Ngữ pháp tiếng Việt.
- Nguyễn Tài Cẩn: Từ loại danh từ trong tiếng Việt hiện đại.
- Nguyễn Tài Cẩn: Ngữ pháp tiếng Việt (Tiếng - từ ghép - đoản ngữ).
- Trương Văn Chình, Nguyễn Hiến Lê: Khảo luận về ngữ pháp Việt Nam.
- Đinh Văn Đức: Ngữ pháp tiếng Việt (Từ loại).
- Trần Đại Nghĩa: Sự tổ hợp loại từ với danh từ trong tiếng Việt hiện đại.
- Nguyễn Kim Thản: Nghiên cứu về ngữ pháp tiếng Việt.
- rung tâm khoa học xã hội và nhân văn quốc gia: Ngữ pháp tiếng Việt.
- Từ khoá: danh ngữ, danh từ, danh từ đơn vị, danh từ đếm được, danh từ khối, nét nghĩa.