« Home « Kết quả tìm kiếm

Hội thảo Việt Pháp - Trung tâm Châu âu nghiên cứu và ứng dụng hướng nghiệp INETOP, CNAM


Tóm tắt Xem thử

- Sự tiến triển kết hợp của hoàn cảnh học đường và của hướng nghiệp tại Pháp: một vài điểm mốc cho lịch sử hướng nghiệp..
- Régis Ouvrier-Bonnaz Trung tâm Châu Âu Nghiên cứu và ứng dụng tâm lý hướng nghiệp INETOP, CNAM Tóm tắt:.
- Những công trình này đã chỉ ra rằng nếu chúng ta không chú trọng đến lịch sử, sẽ khó có thể hiểu được những đặc điểm và những đặc thù của công tác hướng nghiệp hiện đang tồn tại ở Pháp trong mối quan hệ với những cơ sở đào tạo..
- Chúng tôi sẽ trình bày công tác hướng nghiệp đã được ra đời như thế nào tại Pháp, vào đầu thế kỷ 20, theo mong muốn của giới chính trị và kinh tế.
- Việc nghiên cứu những văn bản pháp luật nổi trội nhất, lịch sử những cơ quan và sự ra đời của những cơ quan này đưa ra ánh sáng bước chuyển từ công tác hướng nghiệp theo thời gian, giới hạn trong thế giới việc làm sang công tác hướng nghiệp liên tục ăn sâu trong các trường học..
- Từ khoá: học tập, năng khiếu, giáo dục chuyên nghiệp và kỹ thuật, thông tin, hướng nghiệp..
- Trong bối cảnh đó, ý tưởng về hướng nghiệp là đáp ứng được mối quan tâm làm thế nào giúp lớp trẻ có những công việc phù hợp nhất với khả năng của họ..
- Khuôn khổ đầu tiên về khái niệm của hướng nghiệp đã được biết đến: các cá nhân khác nhau bởi họ có những khả năng thừa hưởng chuyên biệt, các nghề là những thực thể ổn định đòi hỏi những khả năng rất cụ thể.
- Khung cơ sở của sự hòa hợp về hướng nghiệp bắt đầu hình thành từ ý tưởng một xã hội lý tưởng được tổ chức theo những quy luật về lẽ phải, nơi mà mỗi người có một vị trí riêng.
- Từ này bao trùm một khái niệm cũ mà lịch sử của nó còn xuất hiện trước cả ứng dụng trong lĩnh vực hướng nghiệp.
- Sự sắp đặt, phát triển của đào tạo nghề và câu hỏi về hướng nghiệp.
- Tất cả những căng thẳng đó hợp thành các tiêu chí phân biệt các loại hình giáo dục, học sinh, học nghề, và hướng nghiệp (Fontègne, 1921).
- Trong tất cả những dự án đó, nếu hướng nghiệp hiện hữu, dù rõ ràng ít hoặc nhiều, thì nó cũng không có một cách xử lý riêng biệt.
- Khủng hoảng học nghề và những hình thức hướng nghiệp đầu tiên trong nhà trường: những lớp học dự bị học nghề..
- Trong bối cảnh đó, hướng nghiệp và học nghề được coi như những yếu tố cho phép sự gia nhập tốt hơn và sự công bằng xã hội lớn hơn.
- Phong trào hướng nghiệp xuất hiện ngoài nhà trường, và phát triển ở ngoài ngoại vi nhà trường các ngoại lệ có thể được coi như những mô hình đầu tiên của hướng nghiệp: đó là những lớp học dự bị học nghề.
- Mô hình hướng nghiệp đầu tiên này được đánh dấu bởi những đạo luật thế tục hóa trường học năm 1904.
- Năm 1911, khi Đại hội Roubaix về hướng nghiệp được Hiệp hội Phát triển Đào tạo Kỹ thuật Pháp tổ chức (AFDET, thành lập đầu thế kỷ), dự bị học nghề được dịnh nghĩa như giai đoạn nhằm làm nảy sinh sự lựa chọn nghề ở trẻ em.
- Sự liên kết giữa hướng nghiệp và dạy nghề cũng được định nghĩa rõ ràng ở đây.
- Chính vì không có câu trả lời thỏa đáng, những câu hỏi dự bị học nghề luôn tái hiện mỗi khi có khủng hoảng nhà trường để tra cứu mối liên hệ giữa đào tạo/việc làm và hướng nghiệp..
- Đạo luật Astier năm 1919 và sự công nhận hướng nghiệp.
- Không có quy định nào trong luật này liên quan trực tiếp đến hướng nghiệp.
- Trong khi đó, Caroff (1987) đã chỉ ra trong nghiên cứu về tổ chức hướng nghiệp thanh niên tại Pháp, rằng “hướng nghiệp sẽ trở thành, trong vòng 3 năm tới một thực tế hiện hữu trong các cơ quan” với sự thúc đẩy của các địa phương.
- Sự tiến triển này được ủng hộ rộng rãi bởi trường phái khoa học liên quan đến sự thành lập và phát triển của kỹ thuật tâm lý, và sự thành lập Viện Tâm lý theo khởi xướng của Piéron vào năm 1921 bao gồm Ban hướng nghiệp và tuyển chọn chuyên môn (Section d’Orientation et Selection Professionnelle)..
- Theo Edmond Labbé, giám đốc đào tạo kỹ thuật hướng nghiệp tham gia vào việc thực hiện công bằng xã hội bằng cách đặt mỗi người vào đúng vị trí của họ.
- Chính vì vậy, hướng nghiệp cần được nhìn nhận như một câu hỏi giáo dục..
- Sắc lệnh ngày 26 tháng 9 năm 1922, đánh dấu sự thành lập các văn phòng hướng nghiệp dưới trách nhiệm của tiểu ban thư ký giáo dục kỹ thuật, dựa trên một thỏa hiệp..
- Trong bối cảnh đó, sự thành lập Viện Hướng nghiệp Quốc gia (Institut National.
- Sự mở đầu của Viện này đã đưa ra cơ hội cho Labbé làm rõ hơn liên hệ giữa đào tạo kỹ thuật và hướng nghiệp.
- Hướng nghiệp là “một yếu tố chủ yếu của đào tạo kỹ thuật, hay nói cách khác đấy là cơ sở”.
- Khả năng tuyển dụng có trình độ cao sẽ tăng cường vai trò của các văn phòng hướng nghiệp.
- Vào năm 1932, Viện Hướng nghiệp Quốc gia INOP (Tiền thân của INETOP), cùng với những hiệp hội khác, tham gia vào việc thành lập Cơ quan Thống kê Đại học (Bureau Universitaire de Statistique – BUS).
- Những sáng kiến trong hướng nghiệp rất nhiều, nhưng không được triển khai một cách đồng bộ.
- Cương vị của các văn phòng hướng nghiệp không rõ ràng, INOP được coi như một cơ sở tư, BUS giống như các hiệp hội.
- Chính phủ Mặt trận Bình dân và sự thành lập của các dịch vụ hướng nghiệp..
- Chính phủ Mặt trận Bình dân, ra đời sau cuộc bầu cử ngày 5 tháng 5 năm 1936, lo lắng đến công bằng xã hội và tiến bộ kinh tế, vứt bỏ những nền tảng thực sự của hướng nghiệp.
- Nhằm đảo bảo hướng nghiệp cho học sinh trong 3 ban đó, dự án dự kiến chuyển lớp 6 thành một lớp thực sự mang tính quyết định.
- Rất nhiều người chống đối dự án này, vì thế sau đó những lớp hướng nghiệp đầu tiên (nghị định ngày 22 tháng 5 năm 1937) rút ngắn lại thành một học kỳ 3 tháng duy nhất không có tiếng la-tinh.
- Phong trào hướng nghiệp hình thành dựa trên sự phát triển của dạy nghề, để chống lại khủng hoảng việc làm.
- Hai văn bản luật được thông qua, nối liền hướng nghiệp và dạy nghề, điều mà đạo luật Astier không làm:.
- Sắc lệnh ngày 24 tháng 5 năm 1938 liên quan đến hướng nghiệp và dạy nghề trong thương mại, công nghiệp..
- Năm 1939, hai sắc lệnh quyết định các thể thức thành lập và hoạt động của các trung tâm hướng nghiệp.
- Văn phòng hướng nghiệp của tỉnh hoặc liên.
- tỉnh đã được thiết lập, với một thư ký hướng nghiệp.
- Những quy định khác sẽ nêu rõ mối liên hệ với hệ thống giáo dục, nghĩa vụ cộng tác với các trung tâm này của các hiệu trưởng, cũng như với các phòng tìm việc có nhiệm vụ thông báo cho văn phòng hướng nghiệp biết về tình hình của thị trường lao động địa phương.
- Tính độc quyền của Viện Nghiên cứu Quốc gia về Lao động và Hướng nghiệp (INETOP) được đem ra bàn cãi nhưng loại bằng quốc gia do Viện INETOP cấp cho phép những người thi đỗ có được danh hiệu chuyên gia tư vấn hướng nghiệp.
- Song song với việc đó, các trung tâm đào tạo chuyên gia tư vấn hướng nghiệp cũng được thành lập.
- Viện Thống kê sinh vật con người và hướng nghiệp (Institut de Biométrie Humaine et d’Orientation Professionnelle – IBHOP) của Marseille được sáng lập bởi sắc lệnh ngày 15 tháng 4 năm 1943.
- Sau giải phóng, các ban hướng nghiệp đã có một sự phát triển mới, mô hình này sẽ được sự dụng như mô hình mẫu để thành lập các trung tâm đào tạo.
- Sự thiết chế hóa các phòng hướng nghiệp (services d’orientation) trong giáo dục quốc dân, và sự viên chức hóa nhân viên..
- Kế hoạch này dự kiến một cấp bậc đào tạo trung gian (11 đến 15 tuổi) với tên gọi là cấp học hướng nghiệp (cycle d’orientation), và thành lập một đội ngũ các nhà tâm lý học học đường mới bên cạnh những chuyên gia tư vấn hướng nghiệp.
- 11-12 của Tập san của Viện Hướng nghiệp Quốc gia (Bulletin de l’Institut National d’Orientation Professionnelle) năm 1945, sự tồn tại của hai đội ngũ chịu trách nhiệm về sự thích nghi và hướng nghiệp học sinh: “Trong dự án cải cách giáo dục chuẩn bị bởi Ủy ban Langevin, hướng nghiệp học đường phải giữ một vị trí quan trọng để thích hợp khả năng của mỗi người với sự đào tạo có tính giáo dục, bước đầu bắt buộc của đào tạo chuyên môn.
- Nhưng sự hướng nghiệp ban đầu này chỉ nhằm tới khả năng tận dụng đào tạo theo từng loại hình, mức độ mà không nghĩ tới các nghề, sự nghiệp sẽ chọn lựa về sau này.
- Bài viết này, qua việc phân biệt hai chức năng, hàm ý sự tồn tại của của hai hệ thống nhân lực: những nhà tâm lý học học đường trong các trường học và những nhà tư vấn hướng nghiệp nằm trong giao diện giữa nhà trường và thế giới việc làm.
- Văn phòng hướng nghiệp, được coi như một cấp điều phối các hoạt động giữa các trung tâm hướng nghiệp bắt buộc, sẽ được chuyển từ cấp liên tỉnh (niveau départemental) lên cấp vùng (niveau académique).
- Trong cùng thời điểm đó, các hội đồng phản đối việc các đơn vị hành chính liên tỉnh (départements) phải đảm nhận ngân sách quản lý các trung tâm hướng nghiệp.
- Theo đề xuất của bà Rachel Lempereur, nghị sĩ đảng xã hội của miền bắc, chủ tịch Uỷ ban giáo dục quốc gia của Quốc hội, Chính phủ đã sắp xếp lại các phòng hướng nghiệp (services d’orientation) (đạo luật ngày 24 tháng 5 năm 1951).
- Thành lập ban thanh tra hướng nghiệp dưới trách nhiệm của nhà nước ở mỗi viện hàn lâm,.
- Các trung tâm hướng nghiệp bắt buộc chuyển thành các trung tâm hướng nghiệp công, khác biệt với các trung tâm tư nhân,.
- Ngay khi đó, cơ cấu của các trung tâm hướng nghiệp như hiện nay đã được đặt ra, và sự tiến triển của các trung tâm hướng nghiệp đó chủ yếu là về mặt chất lượng để theo sát sự tiến triển và cải tổ hệ thống nhà trường.
- Năm 1961, trong logic phát triển phổ cập giáo dục, nhân viên của các trung tâm hướng nghiệp, trở thành các chuyên gia tư vấn hướng nghiệp học đường và nghề.
- Hướng nghiệp không còn bị đặt ra ngoài lề nữa, đây là thời kỳ hoàng kim của tâm lý học thực nghiệm với những phương pháp toán học ngày càng tinh tế hơn nhờ sự phát triển các nghiên cứu thống kê..
- Cùng thời gian đó, Ban nghiên cứu của Viện Sư phạm Quốc gia (Institut Pédagogique Nationale – INP), tức Viện Nghiên cứu Sư phạm Quốc gia tương lai (INRP), vẫn tiếp tục những nghiên cứu trong lĩnh vực hướng nghiệp chú trọng vào việc quan sát học sinh trong tình huống học đường.
- Nếu được công nhận và đánh giá cao thì sự can thiệp có tính hệ thống trong tình huống học đường của những nhà tư vấn hướng nghiệp học đường và nghề vẫn là chủ đề tranh cãi ngay trong những trường học đó.
- Thủ tướng thời đó Georges Pompidou cũng phản đối, và khẳng định rằng hướng nghiệp trước hết phải là công việc của phụ huynh và giáo viên..
- Sự tích hợp hướng nghiệp trong trường học và phát triển những hoạt động liên quan đến thông tin..
- Đây có thể được coi như giải pháp cho vấn đề phối hợp các cơ cấu đang tồn tại: Cơ quan Thống kê Đại học (BUS) và các trung tâm hướng nghiệp học đường và nghề.
- BUS được chuyển thành Cơ quan Thông tin Quốc gia cho Hướng nghiệp Sư phạm và Nghề (Office National d’Information pour l’Orientation Pédagogique et Professionnelle – ONIOPP).
- Hai cơ quan phụ cho ONIOPP là: Trung tâm nghiên cứu về tiến triển trình độ và phân tích chức năng (Centre d’Etudes et de Recherches sue l’Évolution des Qualifications et l’Analyse des Fonctions), và Viện Quốc gia Nghiên cứu, Đào tạo Hướng nghiệp Sư phạm và Nghề (Institut National d’Etude, de Formation et de Recherche pour l’Orientation Pédagogique et Professionnelle).
- hướng nghiệp ở mức khu vực.
- Dự án cũng dự kiến một cương vị mới cho những trung tâm hướng nghiệp (CO) chuyển đổi thành trung tâm thông tin và hướng nghiệp (CIO)..
- Nhưng, sự tiến triển của các hoạt động hướng nghiệp, các chính sách thông tin càng trở nên cần thiết, và cần được chú ý hơn do sự phát triển quá trình học, sự nhân rộng các cách hướng nghiệp có thể, sự sắp xếp lại thế giới việc làm kèm theo một cái nhìn không rõ ràng như trước về lao động.
- Các trung tâm hướng nghiệp học đường và nghề được chuyển thành các trung tâm thông tin và hướng nghiệp (Centre d’Information et d’Orientation – CIO) biểu hiện ngay trong tên gọi vị trí ngày càng quan trọng của việc cung cấp thông tin trong các hoạt động.
- Nhiệm vụ được chỉ rõ: “các chuyên gia tư vấn, dưới quyền của giám đốc Trung tâm Thông tin và Hướng nghiệp, tham gia vào các hoạt động thông tin, hướng nghiệp ở tất cả các cấp bậc từ cấp 2 đến cao hơn thuộc nhiệm vụ của các trung tâm này.
- Đối với giáo dục cấp 2, các chuyên gia tư vấn hướng nghiệp tham gia vào việc quan sát học sinh nhằm giúp học sinh thích nghi và hướng nghiệp”.
- Cấp liên tỉnh (département) hình thành với đội ngũ thanh tra ở cấp này về thông tin và hướng nghiệp, cấp vùng (académie) được tăng cường bởi sự thành lập ban thông tin và hướng nghiệp hàn lâm trong khuôn khổ củng cố sự kế hoạch hóa nhà trường, đặt ra những quy trình hướng nghiệp mới năm 1973.
- Những quy trình này xoay quanh 3 kỳ riêng biệt: thông tin, đối thoại giữa thanh niên, gia đình và đội ngũ giáo dục, và hướng nghiệp dựa trên quyết định hướng nghiệp của Hội đồng lớp, và quyết định bổ dụng của thanh tra giáo dục.
- Cùng thời gian đó, thông tư ngày 8 tháng 6 năm 1971 đặt vấn đề thông tin học đường và nghề nghiệp trong các trường học dưới quyền trực tiếp của hiệu trưởng, chuyên gia tư vấn hướng nghiệp trở thành chuyên gia tư vấn kỹ thuật của chính hiệu trưởng.
- Thông tư này, với mong muốn tích hợp thông tin “vào tổng thể các hoạt động giáo dục trong các trường học” đã hình dung trước đó sẽ là giáo dục hướng nghiệp trong những năm sau (thông tư ngày 30 tháng 9 năm 1995).
- Ngay năm 1969, Cục thanh tra các ban hướng nghiệp đã được tái thiết lập.
- Giai đoạn cải cách các ban thông tin và hướng nghiệp liên kết chặt chẽ với cố gắng đổi mới đào tạo thay đổi sâu sắc điều kiện của hướng nghiệp.
- Hướng nghiệp được nêu lên trong dạy nghề, nhưng giới hạn dưới góc độ của tư liệu và thông tin.
- Đối với tác giả này, “sự thiếu vắng quy định về hướng nghiệp trong lĩnh vực đào tạo tại chức sẽ mở cửa cho sự đa dạng và phân tán các cố gắng”.
- Ngay khi đó, các biện pháp về đào tạo tại chức đã được triển khai, hướng nghiệp và gia nhập nghề ít có quan hệ đến hoạt động của các ban hướng nghiệp ngoài những yêu cầu khá hạn chế, thường xuyên trải qua không mấy tốt đẹp của đội ngũ nhân viên.
- Những thiết chế mới xuất hiện như những nhóm công tác địa phương (missions locales), những bộ phận thường trực tiếp đón, thông tin và hướng nghiệp năm 1982 trong khuôn khổ những biện pháp gia nhập thanh niên từ 16 đến 25 tuổi.
- Một số cơ quan khác như Cơ quan phụ trách việc làm quốc gia, thành lập vào giữa những năm 60, tập trung lại nhiệm vụ vào hướng nghiệp và ủy thác các hoạt động cho các cơ quan tư nhân.
- Sự tiến triển này giải thích việc tạo lại phạm vi của hướng nghiệp và thay đổi sự phân bổ các chuyên gia trong ngành.
- Trong những năm 70, các chuyên gia tư vấn hướng nghiệp của Giáo dục quốc dân chiếm gần như toàn bộ số chuyên gia hướng nghiệp, đầu năm 2000 họ chiếm ít hơn một phần tư tổng số chuyên gia trong ngành..
- Vào đầu những năm 1970, khung cảnh các các hoạt động hiện nay của hướng nghiệp đã được phác hoạ và tiến triển khá nhanh: 144 trung tâm và 1.300 chuyên gia tư vấn, khoảng dưới 500 trung tâm và bộ phận tuỳ thuộc tập hợp 4.500 chuyên gia tư vấn ngày nay.
- Năm 1991 (công văn ngày 20 tháng 3 năm 1991), các chuyên gia tư vấn hướng nghiệp mang tên gọi là chuyên gia tư vấn hướng nghiệp tâm lý, đầu vào chỉ tuyển các sinh viên có bằng tâm lý.
- Lịch sử này đi từ những ứng dụng đầu tiên của tâm lý học, các công cụ của nó, các bản kiểm tra, đầu thế kỷ 20, đến sự công nhận chính thức danh hiệu nhà tâm lý của những người làm công tác hướng nghiệp học sinh, sinh viên trong nền giáo dục quốc dân.
- Ta cũng có thể rút ra từ lịch sử này một vài bài học đào sâu suy nghĩ về những câu hỏi hiện nay, hoặc để cung cấp tư liệu cho việc thành lập các cấu trúc hướng nghiệp.
- Lịch sử hướng nghiệp có tầm vóc chính trị quan trọng.
- Sự phát triển của hướng nghiệp khắc sâu trong thời gian dài.
- Cần phải phân tích những đặc điểm của hướng nghiệp để hiểu được bản chất những sự kết hợp liên tiếp và tránh lặp lại những bế tắc vào từng thời điểm, có thể làm chậm tiến trình phát triển..
- Lịch sử hướng nghiệp và các hoạt động hướng nghiệp liên kết chặt chẽ với sự phát triển của tâm lý học, và nghề tư vấn hướng nghiệp là một trong những nghề lâu đời nhất của ngành tâm lý.
- Hướng nghiệp phụ thuộc vào sự phát triển của khoa học tâm lý, của các cơ sở đào tạo và nghiên cứu có thể trợ giúp sự phát triển..
- Lịch sử hướng nghiệp và các thực hành không thể tách rời lịch sử các cơ quan chịu trách nhiệm thiết lập, sản xuất các tài liệu thông tin về đào tạo, và thị trường lao động.
- Sự suy ngẫm về các cấu trúc đào tạo riêng trong lĩnh vực hướng nghiệp bao gồm cả sự suy ngẫm song song thành lập các cơ quan đó và nhiệm vụ của họ..
- Để kết thúc, một nhận xét cuối cùng cần chú ý, theo Michel Huteau hướng nghiệp