« Home « Kết quả tìm kiếm

HƯớNG DẫN HọC SINH TIểU HọC HọC TậP MÔN KHOA HọC BằNG PHƯƠNG PHáP BàN TAY NặN BộT


Tóm tắt Xem thử

- HƯỚNG DẪN HỌC SINH TIỂU HỌC HỌC TẬP MÔN KHOA HỌC BẰNG PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT.
- Phương pháp dạy học Bàn tay nặn bột đã được áp dụng vào dạy các môn khoa học tự nhiên ở nhiều nước trên thế giới.
- Phương pháp dạy học này yêu cầu học sinh (HS) động não trình bày những ý tưởng khoa học, tự tìm cách chứng minh những vấn đề khoa học dưới sự hướng dẫn của giáo viên.
- Tại Việt Nam, phương pháp dạy học này được giới thiệu và vận dụng vào dạy các môn học như Khoa học, Sinh học, Vật lý… Bài viết này đề cập đến việc hướng dẫn HS tiểu học học tập khoa học bằng phương pháp Bàn tay nặn bột.
- Tiết dạy thực nghiệm được thực hiện ở lớp 4A3 trường tiểu học Trần Quốc Toản cho thấy phương pháp dạy học này có thể giúp HS phát huy ý tưởng sáng tạo khoa học, khơi dậy niềm đam mê khoa học và tạo động lực học tập tích cực cho HS..
- Trong chương trình học ở cấp tiểu học, ngoài hai môn chính là Toán và Tiếng Việt thì môn Khoa học được xem là môn học rất quan trọng với học sinh (HS) tiểu học.
- biết làm những thí nghiệm đơn giản, nêu câu hỏi trong quá trình học tập.
- Lên lớp 4 và 5, môn học này được thay thế với tên gọi Khoa học (trong bài báo này, từ “Khoa học” được gọi chung cho môn Tự nhiên xã hội và môn Khoa học ở tiểu học).
- Nghĩa là HS sẽ xem xét, quan sát các hiện tượng xung quanh, thực hành thí nghiệm để đánh giá, so sánh và rút ra những kết luận chung.
- Các bài học trong chương trình đều yêu cầu HS quan sát, ghi chép, thực hành thí nghiệm và tự đưa ra những đề xuất khoa học liên quan đến vấn đề được học.
- Xuất phát từ điểm này, chúng tôi nhận thấy phương pháp Bàn tay nặn bột (BTNB) có thể giúp HS phát huy tối đa khả năng.
- sáng tạo, tích cực chủ động giúp HS đưa ra những nhận xét và đề xuất các cách thử nghiệm, cách giải quyết vấn đề trong học tập môn khoa học theo cách nhìn của bản thân.
- Trong bài viết này, chúng tôi trình bày cách hướng dẫn HS tiểu học học tập môn khoa học bằng phương pháp BTNB và tiến hành thực nghiệm dạy tại trường tiểu học để chứng minh hiệu quả của phương pháp này trong việc phát huy trí tưởng tượng, khả năng sáng tạo, khả năng tự thiết kế và làm thí nghiệm, kỹ năng tự đặt câu hỏi, kỹ năng diễn đạt..
- 2 BỐI CẢNH THỰC HIỆN NGHIÊN CỨU Ở trường tiểu học hiện nay, việc hướng dẫn HS thực hành thí nghiệm khi học môn Khoa học chỉ mang tính chất minh họa để kiểm chứng lại các kết quả thí nghiệm chứ chưa thật sự tạo được động cơ tìm tòi, ham thích khám phá tìm hiểu về tự nhiên và xã hội của HS.
- Như vậy, trong dạy học Khoa học, làm thế nào để khuyến khích HS tự đặt câu hỏi, phát huy tối đa khả năng sáng tạo và yêu thích làm thí nghiệm để giải đáp những thắc mắc của chính HS là một yêu cầu đặt ra trong mục tiêu dạy học môn học này.
- Phương pháp BTNB được sử dụng trong dạy học khoa học nhằm phát huy trí tưởng tượng và khả năng sáng tạo, niềm đam mê khoa học và tạo động cơ để các em học tập môn học này..
- (1) Vận dụng phương pháp dạy học BTNBvào dạy môn khoa học, tự nhiên xã hội cho HS tiểu học ở các trường tiểu học tại Thành phố Cần Thơ có làm nảy sinh ý tưởng sáng tạo khoa học và niềm đam mê khoa học của HS tiểu học hay không?.
- (2) Hướng dẫn HS học tập môn khoa học bằng phương pháp BTNB có tạo được động cơ học tập tích cực ở HS hay không?.
- 4 VỀ PHƯƠNG PHÁP BÀN TAY NẶN BỘT Lịch sử ra đời của phương pháp Bàn tay nặn bột.
- Phương pháp BTNB được khởi xướng bởi Giáo sư Goerges Char-pak (Pháp).
- nghiên cứu về phương pháp BTNB được thành lập tại Ban Trường học - Bộ Giáo dục Quốc gia Pháp để nghiên cứu về hoạt động Khoa học này ở Mỹ và sự tương thích của nó với điều kiện ở Pháp.
- Từ tháng 4/1996 đến ngày qua các cuộc hội thảo và được sự thống nhất của Viện Hàn lâm Khoa học Pháp chương trình đã chính thức được thực hiện.
- Tháng 9/1996, phương pháp BTNB chính thức được ra đời trên cơ sở kế thừa của các thử nghiệm trước đó và tiếp tục phát triển.
- Kể từ khi được chính thức thành lập và đưa vào giảng dạy đến nay, phương pháp dạy học này không ngừng được cải thiện, bổ sung, điều chỉnh nhằm nâng cao chất lượng giảng dạy các môn khoa học tự nhiên..
- Ngay từ khi mới ra đời, phương pháp BTNB đã được tiếp nhận và phổ biến rộng rãi không chỉ tại nước Pháp mà lan rộng ra nhiều quốc gia trên thế giới như Brazil, Bỉ, Afghanistan, Campuchia, Chilê, Trung Quốc, Thái Lan, Colombia, Hy Lạp, Malaysia, Marốc, Serbi, Thụy Sỹ, Đức,…trong đó có Việt Nam..
- Phương pháp BTNB được đưa vào Việt Nam là một cố gắng nỗ lực to lớn của Hội Gặp gỡ Việt Nam (1993) do giáo sư Jean Trần Thanh Vân - Việt kiều tại Pháp làm chủ tịch.
- Phương pháp BTNB được áp dụng thử nghiệm ở một số trường Tiểu học tại Hà Nội Huế, Đà Nẵng.
- Tại Cần Thơ, phương pháp này mới được giới thiệu đến GVcác trường tiểu học vào năm 2012..
- Khái niệm phương pháp Bàn tay nặn bột Theo định nghĩa của Goerges Char-pak (1995), BTNB (tiếng Pháp “La main à la pâte”, tiếng Anh.
- “Hand on”) là một phương pháp dạy học tích cực dựa trên thí nghiệm nghiên cứu, áp dụng cho việc giảng dạy các môn khoa học tự nhiên.
- BTNB chú trọng việc hình thành kiến thức cho HS bằng các thí nghiệm tìm tòi nghiên cứu để chính các em tìm ra câu trả lời cho các vấn đề được đặt ra trong cuộc sống thông qua tiến hành thí nghiệm, quan sát, nghiên cứu tài liệu hay điều tra..
- Theo nghĩa đen, phương pháp BTNB có nghĩa là khi ta muốn làm một cái bánh theo khuôn mẫu trước hết ta phải biết được công thức sau đấy là tự tay ta sẽ pha chế bột và nặn bột.
- Kết quả cuối cùng là các em tạo ra một.
- “cái bánh” theo ý tưởng sáng tạo của các em.
- Theo nghĩa bóng, phương pháp BTNB là phương pháp dạy học mà ở đấy GV sẽ tổ chức cho HS tự tìm ra câu trả lời cho những vấn đề được đặt ra trong bài học, trong cuộc sống thông qua việc tiến hành thí nghiệm, tự nghiên cứu, tìm tòi, đề xuất, thảo luận để từ đó hình thành kiến thức cho mình.
- Cụ thể là trong quá trình học, GV sẽ cho các em quan sát một sự vật, hiện tượng của thế giới thực tại, gần gũi với các em để hình thành cho các em những nghi vấn, thắc mắc cần giải quyết, các em sẽ tự suy nghĩ, đề ra giả thuyết và tiến hành làm thí nghiệm tìm ra câu trả lời, rút ra kiến thức Khoa học cho bản thân dưới sự hướng dẫn của GV..
- Khi dạy học bằng phương pháp này, vai trò của người GV vô cùng quan trọng.
- Tiến trình dạy học bằng phương pháp BTNB Tiến trình dạy học theo phương pháp BTNB được Goerges Char-pak (1995) và nhóm nghiên cứu đưa ra nhằm giúp cho GV xác định các bước cần chuẩn bị khi áp dụng phương pháp BTNB vào giảng dạy các môn khoa học.
- Sau đó, GV cho các em đề xuất phương án thực nghiệm tìm tòi nghiên cứu để tìm câu trả lời cho các câu hỏi đó..
- Bước 4: Tiến hành thực nghiệm tìm tòi -nghiên cứu..
- Từ các phương án thực nghiệm tìm tòi - nghiên cứu mà HS nêu ra, GV khéo léo nhận xét và lựa chọn dụng cụ thí nghiệm hay các thiết bị dạy học thích hợp để HS tiến hành nghiên cứu..
- Sau khi thực hiện thí nghiệm tìm tòi -nghiên cứu, các câu trả lời dần dần được giải quyết, các giả thuyết được kiểm chứng, kiến thức được hình thành.
- Tuy nhiên vẫn chưa có hệ thống hoặc chưa chuẩn xác một cách Khoa học.
- Năm bước dạy theo phương pháp này được chúng tôi vận dụng vào dạy 02 tiết thực nghiệm môn Khoa học lớp 4..
- Tiết 2: Bài “Làm thế nào để biết có không khí.
- của hai sinh viên ngành Giáo dục tiểu học khóa 35 tham gia nghiên cứu về phương pháp BTNB..
- Chuẩn bị: Người viết cùng nhóm SV nghiên cứu xác định mục tiêu bài dạy, xây dựng tiến trình bài dạy theo phương pháp BTNB, chuẩn bị các nguyên vật liệu, dụng cụ thí nghiệm cho hai tiết dạy, gồm có:.
- Tiết 2: GV cho một vài HS trong lớp phát biểu, sau đó dẫn dắt HS đến vấn đề là hãy hình dung xem không khí có ở những đâu..
- Bước 3: Đề xuất giả thuyết (câu hỏi) và thiết kế phương án thí nghiệm.
- Tiết 1: GV ghi các ý kiến đề xuất của HS lên bảng, sau đó thống nhất với HS cách thức giải quyết vấn đề là cùng nhau thiết kế một mô hình lọc nước..
- Tiết 2: GV ghi các ý kiến của HS lên bảng, sau đó yêu cầu HS đề xuất các cách chứng minh là không khí có ở xung quanh chúng ta..
- HS làm việc cá nhân: ghi chép và vẽ vào vở mô hình lọc nước theo trí tưởng tượng của mình.
- HS làm việc cá nhân: những cách thức để chứng minh có không khí ở quanh chúng ta.
- Bước 4: Tiến hành thí nghiệm tìm tòi – nghiên cứu.
- Tiết 1: GV phát dụng cụ, nguyên vật liệu cho các nhóm và yêu cầu các nhóm tự làm dụng cụ lọc nước theo mô hình mà nhóm đã thiết kế..
- Tiết 2: GV phát dụng cụ và cho các nhóm tiến hành thí nghiệm để chứng minh có không khí ở ngay trong lớp học..
- *Tiết 2: GV cho các nhóm lần lượt biểu diễn các cách chứng minh không khí có ở xung quanh chúng ta và rút ra kết luận với sự hướng dẫn của GV..
- (3) Tranh vẽ và sản phẩm thí nghiệm của nhóm:.
- Ngoài ra, chúng tôi còn chụp lại hình ảnh sản phẩm thí nghiệm của các nhóm đã hoàn thành..
- Qua hai tiết hướng dẫn HS học tập môn Khoa học bằng phương pháp BTNB, chúng tôi đã ghi nhận được những kết quả sau:.
- (1) Ý tưởng sáng tạo khoa học của HS.
- Ý tưởng sáng tạo khoa học của HS được bộc lộ khá phong phú, nó được biểu hiện ở bước 2 và 3 trong tiến trình dạy.
- Hình 1: Mô hình dụng cụ lọc nước do cá nhân HS thiết kế Tiết 2, vấn đề đối với HS tưởng chừng như đơn.
- giản nhưng lại khó đối với HS bởi lẽ HS biết là có không khí ở xung quanh nhưng làm cách nào để chứng minh cho người khác biết được lại là một.
- vấn đề bởi lẽ không khí không mùi, không màu, không vị.
- Từ kết quả trên cho thấy, HS tiểu học đã có những ý tưởng sáng tạo khoa học theo cách nghĩ riêng rất trẻ con.
- Kết quả: nhóm 1, 2 và 4 làm được dụng cụ lọc nước theo mô hình mà nhóm đã thiết kế nhưng khi tiến hành lọc nước thì nước vẫn dơ, chưa đạt yêu cầu.
- GV yêu cầu các nhóm vẽ lại mô hình lọc nước đã thí nghiệm thành công.
- GV cũng yêu cầu nhóm vẽ lại mô hình đã thí nghiệm thành công.
- Sau khi các nhóm đã hoàn tất, GV cho các nhóm trưng bày sản phẩm và so sánh mô hình thí nghiệm đã thành công với mô hình đã xây dựng trước đó, tìm cách lý giải xem tại sao lại có sự thay đổi đó (Hình 2)..
- Hình 2: Mô hình lọc nước trước và sau khi thí nghiệm của nhóm 3 và 4 Nhìn vào mô hình của nhóm 3 và 4 trước và sau.
- Mô hình của nhóm 3 trước khi thí nghiệm (được chú thích ở phần trên của hình chụp) không làm được vì hình chỉ vẽ nước dơ được hút lên và qua một bình có 3 ngăn để xử lý nhưng bình đó chứa những gì để làm cho nước sạch thì nhóm lại không hình dung được.
- Hình 3: HS tìm cách chứng minh không khí ở quanh ta Ở các Hình 3 này, chúng ta thấy nhóm 2 tiến.
- thắc mắc “tại sao lại không đưa được không khí trong quả bóng vào chai được nhỉ.
- Vậy trong chai rỗng cũng có không khí nữa”..
- Hình 4: Đề xuất thí nghiệm và quá trình thực hành của nhóm 1 Hình 4 mô tả những cách thức nhóm 1 đưa ra.
- Nhìn chung lại, mỗi HS đến trường đều đã có những kiến thức nhất định về các vấn đề khoa học tự nhiên do các em quan sát và ghi nhận trong thực tế cuộc sống.
- Qua hai tiết dạy, chúng tôi nhận thấy những ý tưởng khoa học của HS được bộc lộ khá phong phú.
- Tự đề ra phương cách chứng minh, tự làm thí nghiệm, tự rút ra kết luận khoa học dưới sự hướng dẫn của GV giúp HS nắm vững bài một cách tích cực hơn..
- (2) Niềm đam mê khoa học và động cơ học tập tích cực.
- Qua quan sát và ghi chép, chúng tôi thấy niềm đam mê khoa học và động cơ học tập tích cực của HS được biểu hiện cụ thể như sau:.
- HS rất thích thú khi được tự mình lên ý tưởng thí nghiệm và được thực hành thí nghiệm.
- Ở tiết dạy tiếp theo, các em có vẻ như rất háo hức khi tìm cách để chứng minh không khí có ở chung quanh chúng ta.
- Tuy vậy, các em cũng tìm cách để chứng minh với bạn bè.
- Ngoài ra, hoạt động thí nghiệm cuốn hút tất cả HS tham gia.
- nói “Em rất thích được làm thí nghiệm khi học môn khoa học vì rất lý thú”.
- hi vọng “em mong tiết học nào cũng được là như thế này, vì giống như nhà khoa học vậy”..
- Qua hai tiết dạy hướng dẫn HS học môn khoa học bằng phương pháp BTNB tại trường tiểu học Trần Quốc Toản, kết quả ghi nhận đã trả lời được câu hỏi đặt ra khi nghiên cứu: việc vận dụng phương pháp dạy học BTNB vào dạy môn khoa học cho HS tiểu học thật sự làm nảy sinh ý tưởng sáng tạo khoa học, niềm đam mê khoa học và tạo được động cơ học tập tích cực ở HS.
- Bên cạnh những kết quả đạt được, trong quá trình thực nghiệm chúng tôi cũng gặp những khó khăn nhất định như thời gian không đủ (tiết dạy thường kéo dài khoảng 60 phút trong khi thời gian cho phép ở tiểu học là 40 phút), không gian lớp học chật hẹp, dụng cụ thí nghiệm và nguyên vật liệu cho HS thí nghiệm chưa đa dạng và khá tốn kém..
- Trong quá trình học tập môn Khoa học, việc giúp HS bộc lộ những hiểu biết ban đầu về các vấn đề khoa học, hướng dẫn HS thực hành thí nghiệm để chứng minh là điều cần thiết.
- Phương pháp dạy học BTNB giúp HS thích thú, hăng say khi có điều kiện thể hiện sự hiểu biết của mình đặc biệt là được tự tay thực hành thí nghiệm kiểm chứng.
- Tuy nhiên, để giảng dạy tốt tiết dạy theo phương pháp này, GV cần có sự chuẩn bị chu đáo về dụng cụ thí nghiệm, xây dựng tình huống xuất phát hấp dẫn, dự.
- ĐT, Tự nhiên – xã hội và phương pháp dạy học môn Tự nhiên – xã hội, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2007..
- ĐT, Sách giáo khoa Khoa học 4,5, Nxb Giáo Dục, Hà Nội, 2008..
- ĐT, Phương pháp Bàn tay nặn bột, Sách dự án dành cho phát triển GV vùng khó khăn, 2010..
- George Charpak, Bàn tay nặn bột, khoa học ở trường tiểu học, (Dịch giả Đinh Ngọc Lân), Nhà xuất bản Giáo Dục, 1999..
- Nguyễn Vinh Hiển, Phương pháp BTNB trong dạy học các môn Khoa học cấp Tiểu học và cấp trung học cơ sở, Tài liệu tập huấn giáo viên, Dự án giáo dục Trung học cơ sở vùng khó khăn nhất, Bộ Giáo dục và Đào tạo, 2012..
- Đỗ Thị Nga, BTNB– một phương pháp dạy học mang tính tích hợp cao, Kỉ yếu hội thảo khoa học Dạy học tích hợp ở tiểu học – hiện tại và tương lai, ĐHSP.
- Bùi Phương Nga (chủ biên), Lương Việt Thái, Khoa học 4, NXB giáo dục Hà Nội, 2005..
- Nguyễn Thị Thấn, Phương pháp dạy học các môn học về tự nhiên và xã hội, NXBGD Đại học Sư phạm Hà Nội, 2009.