« Home « Kết quả tìm kiếm

KHAI THÁC TRI THỨC ĐỊA PHƯƠNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ


Tóm tắt Xem thử

- KHAI THÁC TRI THỨC ĐỊA PHƯƠNG CÁC DÂN TỘC THIỂU SỐ PHỤC VỤ PHÁT TRIỂN BỀN VỮNG – TIẾP CẬN NHÂN HỌC.
- Thế nào là tri thức địa phương?.
- Theo đánh giá của Liên hiệp quốc, hiện nay có khoảng 300 triệu nhóm địa phương trên toàn thế giới (Sillitoe et al mỗi nhóm sở hữu một hệ thống tri thức của riêng mình.
- Do tính đa dạng như vậy nên cho đến nay, việc định nghĩa tri thức địa phương vẫn còn là một chủ để tranh luận, đặc biệt là trong bối cảnh có nhiều khái niệm tương tự và dễ gây ra nhầm lẫn, như tri thức dân gian, tri thức bản địa hay tri thức truyền thống.
- Tri thức địa phương là hệ thống tri thức bất kỳ về thế giới do một cộng đồng người sáng tạo nên, được phát triển gắn liền với lịch sử của cộng đồng cũng như các điều kiện cụ thể của địa phương nơi cộng đồng ấy sinh sống.
- Các tri thức địa phương được truyền thụ cho từng cá nhân trong cộng đồng sau khi sinh ra và đóng vai trò định hướng cách thức họ tương tác với môi trường sống, đồng thời không ngừng được bồi đắp và bổ sung bởi các tri thức bên ngoài.
- Tri thức địa phương luôn phân bố không.
- Mặc dù nó là sản phẩm của cộng đồng và có mức độ chia sẻ lớn hơn so với các tri thức khoa học chuyên biệt, nhưng không một cá nhân, chủ thể hay nhóm xã hội nào hiểu biết toàn bộ hệ thống ấy.
- Do đó, tri thức địa phương không tồn tại như một hệ thống lý thuyết nhất quán và bài bản (Sillitoe et al 2002: 9)..
- Mặc dù còn nhiều ý kiến khác nhau xung quanh nội hàm của khái niệm tri thức địa phương, những hiện nay nhiều học giả đã thống nhất một số đặc điểm căn bản của loại hình tri thức này để trên cơ sở đó phân biệt tri thức địa phương với tri thức khoa học.
- Theo đó, khác với tri thức khoa học, tri thức địa phương không tồn tại như một hệ thống lý thuyết nhất quán.
- Về phương thức hình thành, tri thức địa phương không phải hình thành qua thực nghiệm khoa học và sau đó được tổng kết thành hệ thống lý thuyết hoàn chỉnh, mà được hình thành gắn với các yêu cầu trực tiếp của đời sống, mang tính kinh nghiệm và ứng dụng hơn là lý thuyết học thuật.
- Bên cạnh đó, tri thức địa phương được hình thành gắn với đặc thù về điều kiện tự nhiên, xã hội và lịch sử của một địa bàn nhất định, do đó phạm vi áp dụng của nó không phải là phổ biến, mà nhìn chung gắn chặt với địa bàn và cộng đồng cư dân nơi tri thức đó hình thành.
- Hơn thế nữa, bản thân tri thức địa phương của một cộng đồng cũng không phải là thống nhất, mà mỗi cá nhân trong cộng đồng lại có những tri thức riêng.
- Cuối cùng, nói đến tri thức địa phương là nói đến một hệ thống tri thức động, luôn luôn có sự vận động, biến đổi, giao thoa và tích hợp, gắn liền với quá trình sinh sống, sản xuất và tái sản xuất của cộng đồng (Warren et at 1995, Sillitoe 1998, Ellen, Parkes &.
- Chủ nghĩa sô vanh văn hóa và tri thức địa phương.
- Nhiều nghiên cứu nhân học đã cho thấy rằng, dưới tác động của quá trình toàn cầu hóa và giao thoa văn hóa, gắn liền với sự mở rộng và phát triển của chủ nghĩa tư bản phương Tây, chủ nghĩa sô vanh văn hóa (ethnocentrism) đã và đang được áp dụng dưới nhiều hình thức trên thế giới.
- Đặc biệt, tư tưởng sô vanh văn hóa đã được sử dụng rộng rãi để nhìn nhận và đánh giá các hệ thống tri thức ngoài phương Tây.
- Bằng cách đối lập giữa các hệ thống tri thức địa phương của các tộc người ngoài phương Tây với các tri thức khoa học của châu Âu và Bắc Mỹ, quan điểm sô vanh văn hóa đã thiết lập một hệ thống thứ bậc giữa các tri thức, theo đó các tri thức khoa học được coi là tiến bộ hơn, ưu việt hơn so với các hệ thống tri thức địa phương được cho là lạc hậu, mê tín và chậm phát triển Sillitoe et al 2002: 11).
- Chính vì tư tưởng này, nhiều nghiên cứu của các học giả phương Tây đã không dành sự tôn trọng đúng mức cho các tri thức địa phương và đề cao tuyệt đối các tri thức khoa học, cho rằng các tri thức khoa học và.
- công nghệ phương Tây có thể cung cấp câu trả lời cho mọi vấn đề, và đòi hỏi phải thay thế, loại bỏ các hệ thống tri thức khác bằng tri thức khoa học (Chambers 1985, Richards 1985, Chambers et al 1989, Ferguson 1990, Escobar 1995, Sillitoe 1998)..
- Cho đến nay, mặc dù đã có nhiều nghiên cứu chứng minh tính hạn chế của chủ nghĩa sô vanh văn hóa và khẳng định giá trị của tri thức địa phương, nhưng vẫn còn đó một xu hướng trong giới học thuật phương Tây cho rằng những tri thức này là lạc hậu, thiếu cơ sở.
- Chính vì thế, nhiều nghiên cứu do các học giả phương Tây tiến hành, mặc dù không đi sâu tìm hiểu quan điểm của cộng đồng bản địa và bối cảnh hình thành tri thức địa phương, đã mặc nhiên nhìn nhận các cộng đồng nghiên cứu là chậm tiến, thiếu hiểu biết, và hạ thấp giá trị của các tri thức cộng đồng (Warren et al 1995)..
- Những hậu quả của việc coi thường tri thức địa phương: một số ví dụ Trong một nghiên cứu về quá trình phát triển kinh tế thời kỳ hậu thực dân ở Ấn Độ mà đặc biệt là chương trình đổi mới nông nghiệp nổi tiếng với tên gọi Cách mạng Xanh, Akhil Gupta (1998) cho thấy tác động của các tư tưởng hiện đại hóa cấp tiến từ Nehru đến Indira Gandhi đã ảnh hưởng đến quá trình thực thi các dự án phát triển nông nghiệp nông thôn như thế nào.
- Dựa trên các tư liệu dân tộc học thu thập trong quá trình nghiên cứu từ 1984 đến 1992 tại Alipur, một làng đa đẳng cấp ở bang miền Tây Uttar Pradesh, Gupta phác họa lại bức tranh cách mạng xanh ở Ấn Độ những năm 1960s và 1970s.
- Chịu sự chi phối của mô hình hiện đại hóa phương Tây, các nhà lãnh đạo Ấn Độ giai đoạn này đã tự hạ thấp vai trò của các tri thức địa phương truyền thống của các cộng đồng Ấn Độ và tuyệt đối hóa vai trò của các tri thức khoa học châu Âu – Bắc Mỹ.
- Chính vì thế, họ đã tiến hành cuộc cách mạng Xanh trên cơ sở sự hướng dẫn của các chuyên gia phương Tây, những người, mặc dù chưa từng nghiên cứu chuyên sâu về bối cảnh kinh tế, xã hội và sinh thái đặc thù của Ấn Độ, đã mặc nhiên cho rằng các tri thức địa phương đều là lạc hậu, và đề cao tuyệt đối vai trò của các tri thức khoa học cũng như các công nghệ nông nghiệp phương Tây lúc bấy giờ, từ việc sử dụng phân bón, các máy móc làm đất, các loại hạt giống cao sản và mô hình nông nghiệp mang định hướng thị trường.
- Tuy nhiên, do thiếu sự tham gia của cộng đồng bản địa và các tri thức địa phương, quá trình hiện đại hóa nông nghiệp đã gặp nhiều khó khăn và thậm chí để lại nhiều hậu quả nghiêm trọng, bao gồm việc cạn kiệt các tài nguyên tái tạo, sự suy giảm chất lượng đất, và tình trạng thiếu đói do sản xuất cây trồng không phải là lương thực.
- chính quan điểm sô vanh văn hóa của họ, mà ông gọi là quan điểm của chủ nghĩa đế quốc sinh thái (p.300), với sự thiếu tôn trọng tri thức địa phương, là nguyên nhân chính dẫn đến những vấn đề về môi trường và suy giảm tài nguyên nghiêm trọng..
- Nghiên cứu của Gupta gợi lại các quan điểm được Ferguson (1990) trình bày trong công trình nhân học về các dự án phát triển do Ngân hàng Thế giới tiến hành tại Lesotho những năm 1970.
- Do thiếu những nghiên cứu nhân học nghiêm túc về tình hình thực địa, các chuyên gia phát triển của WB đã đưa ra nhiều nhận định không chính xác và chủ quan về tình hình Lesotho.
- Do không chú trọng đến các tri thức địa phương cũng như các vấn đề văn hóa về giới và tôn giáo, nên WB đã triển khai nhiều chương trình phát triển không phù hợp và cuối cùng thất bại.
- Chính vì không đánh giá đúng mức vai trò của các tri thức địa phương, nên những chương trình phát triển của WB, mặc dù được đầu tư rất lớn và được xây dựng dựa trên các tri thức khoa học hiện đại của phương Tây về nông nghiệp, nhưng đã gặp phải sự phản kháng mạnh mẽ từ các cộng đồng địa phương và không hiệu quả như mong muốn..
- Sự thiếu tôn trọng tri thức địa phương không chỉ xuất hiện trong các dự án tại các nước nghèo, mà còn cả tại những quốc gia phát triển, một trong số đó là dự án chuyển đổi cây trồng ở Hoa Kỳ những năm 1940s và 1950s.
- Theo Scott (1998), trong thời gian này, dưới tác động của các nghiên cứu thực nghiệm trong nông nghiệp, người Mỹ chủ trương loại bỏ toàn bộ các mô hình đa canh (trồng xen) và chuyển đổi toàn bộ diện tích nông nghiệp sang mô hình đơn canh dựa trên các kết quả nghiên cứu thực nghiệm cho thấy năng suất cao của phương pháp này.
- Từ thất bại của các cánh đồng đơn canh, nhiều nghiên cứu đã đuợc tiến hành để phân tích nguyên nhân và tìm hiểu những điểm tích cực của phương pháp đa canh truyền thống.
- Các nghiên cứu đó đã cho thấy, mô hình đơn canh chỉ cho năng suất cao trong những điều kiện lý tưởng của môi trường thực nghiệm, còn trên thực tế, các cánh đồng đơn canh rất dễ bị tấn công trên diện rộng bởi các gen gây bệnh.
- hình đa canh, vốn đã được sử dụng rộng rãi trong các cộng đồng bản địa trong nhiều năm, lại là mô hình có khả năng kháng bệnh cao hơn, bởi lẽ việc có nhiều loại cây được trồng trên cùng một thửa ruộng sẽ khiến các virut gây bệnh không thể lan rộng và nhanh chóng bị khoanh vùng và tiêu diệt.
- Nghiên cứu của Scott cho thấy, trong khi mô hình đơn canh và đơn thể di truyền là mô hình lý tưởng của các tri thức khoa học phương Tây những năm 1950, thì mô hình đa canh vốn bị coi là lạc hậu lại là một phương thức thích nghi và thích ứng với nhiều điểm hợp lý và có tính bền vững cao khi áp dụng vào các bối cảnh cụ thể..
- Khai thác tri thức địa phương các dân tộc thiểu số và phát triển bền vững Trong những năm gần đây,việc nghiên cứu và khai thác tri thức địa phương đã được các nhà khoa học ở nhiều lĩnh vực quan tâm,gắn liền với yêu cầu phát triển bền vững .Một số nghiên cứu tập trung xem xét tri thức địa phương đối với canh tác nông nghiệp đất dốc ở vùng cao,liên quan đến việc bảo vệ môi trường và nguồn tài nguyên;một số khác tiếp cận tri thức về canh tác nông nghiệp trên các loại địa hình khác nhau.
- Gần đây, nhiều nghiên cứu đã tập trung nghiên cứu tri thức địa phương về khai thác quản lý đất,rừng,nước và kinh nghiệm thích ứng của cư dân trước những biến đổi khí hậu và hệ quả của nó.
- một số khác lại tập trung nghiên cứu về tri thức y học dân gian vốn khá phong phú và đa dạng nhằm khai thác vốn tri thức quý giá trong kho tàng văn hóa trong đời sống các dân tộc ở Việt Nam.
- Riêng về y học dân gian từ rất sớm đã được nghiên cứu sưu tầm dưới góc độ dược học mà tiêu biểu và công trình của Đỗ Tất Lợi .
- Trong vài thập kỷ gần đây,dưới góc độ dược học - dân tộc nhiều khaỏ cứu đã đề cập y học dân gian với tư cách là thành tố văn hóa và đặt nó trong bức tranh văn hóa tộc người và môi trường .
- Cóp thể thấy rõ điều này qua các nghiên cứu về kinh nghiệm chữa bệnh của người Dao,Thái,Mường,Hmong,Ê đê, Gia rai và nhiều dân tộc khác .
- Hệ tri thức dân gian này được khai thác một cách toàn diện trong mối quan hệ với các thành tố văn hóa khác như ăn mặc, cấu trúc nhà ở,văn hóa ẩm thực,những kinh nghiệm về thời tiết,khí hậu ,đất đai thổ nhưỡng, tập quán canh tác, mưu sinh.
- Trên nền tảng tiếp cận hệ tri thức đó, một số nghiên cứu đã tập trung khai thác phong tục tập quán trong việc bảo vệ môi trường,quản lý làng bản góp phần ứng dụng trong việc xây dựng quy ước nông thôn mới đang được triển khai rộng rãi ở Việt Nam.
- Khi tiếp cận tri thức địa phương,nhiều tác giả đã tiếp cận tri thức của từng cộng đồng và nhóm địa phương trong mối liện hệ Tri thức bản địa-Môi trường-Văn hóa và sự biến đổi của nó qua từng thời kỳ,từng giai đoạn để trên cơ sở đó xem xét quy chế truyền thống của cộng đồng trong sự vận động và biến đổi .Điều này có thể thấy rõ qua các dự án phát triển ở Việt Nam gần đây, như dự án đa dạng hóa nông nghiệp Miền Trung và Tây Nguyên mà cá nhân tác giả bài viết này tham gia nhóm tư vấn triển khai .
- Trong dự án này các tri thức về trồng trọt xen canh đã được áp dụng trong việc trồng cao su tiểu điền.
- Trong vài thập kỷ gần đây,nhiều nghiên cứu về tri thức địa phương được khai thác qua kho tàng văn học dân gian ( thành ngữ,tục ngữ ,ca dao,dân ca,luật tục - tập quán pháp.
- Giá trị của tri thức địa phương và vai trò của Nhân học.
- Một trong những đóng góp quan trọng nhất của nhân học đối với phát triển là phê phán chủ nghĩa sô vanh văn hóa và nêu bật các giá trị văn hóa của các cộng đồng ngoài phương Tây, mà một trong số đó là phản ánh ý nghĩa, vai trò và giá trị của các hệ thống tri thức địa phương.
- Mặc dù đây là một nhiệm vụ khó khăn, nhưng các tri thức nhân học có vai trò quan trọng trong việc hình thành một thái độ linh hoạt, cởi mở và cầu thị khi nhin nhận các hệ thông tri thức của các tộc người khác..
- So với các khoa học khác, nhân học được đặc trưng bởi phương pháp nghiên cứu riêng là quan sát tham gia (participant observation).
- Phương pháp này đòi hỏi nhà nghiên cứu phải sống và sinh hoạt trong cộng đồng nghiên cứu trong một khoảng thời gian đủ lâu (ít nhất là một năm) để trực tiếp chứng kiến và trải nghiệm cuộc sống của cộng đồng mà mình nghiên cứu.
- Chính nhờ quá trình quan sát tham dự ấy, nhà nhân học có thể phát hiện ra nhiều vấn đề phức tạp mà một nghiên cứu ngắn ngày không phát hiện ra được.
- Quan trọng hơn, quá trình nghiên cứu lâu dài kết hợp với việc sinh sống ngay trong cộng đồng nghiên cứu sẽ giúp nhà nhân học lý giải được các vấn đề kinh tế, văn hóa xã hội từ góc nhìn, thế giới quan, nhân sinh quan của chính đối tượng nghiên cứu (quan điểm emic), nhờ đó hạn chế việc áp đặt quan điểm chủ quan của cá nhân mình (quan điểm etic) dẫn đến những đánh giá thiếu khách quan và phiến diện về văn hóa của cộng đồng bản địa (Wilson 1970, Godelier 1972, Hugh-Jones &.
- Thông qua các nghiên cứu dân tộc học chuyên sâu và dài ngày, thông qua việc sinh sống và trải nghiệm trong chính cộng.
- đồng bản địa, nhà nhân học có thể nhìn nhận và phản ánh những giá trị riêng có của hệ thống tri thức địa phương thuộc một nền văn hóa bất kỳ, không phân biệt trình độ phát triển (Harris 1987:9, Hobart et al 1993, Scott 1998).
- Theo các nhà nhân học đã khẳng định, tri thức địa phương được sản sinh gắn với các nhu cầu cuộc sống và quá trình thực nghiêm của con người, và gắn liền với bối cảnh cụ thể (Ellen, Parkes &.
- Do đó, dựa trên cốt lõi văn hóa của các tộc người và cộng đồng, mỗi hệ thống tri thức địa phương, không phân biệt khu vực địa lý, lịch sử phát triển, trình độ kinh tế và đặc điểm chính trị, đều có những giá trị cần được tôn trọng, bảo tồn và phát triển, góp phần vào kho tàng văn hóa đa dạng của xã hội loài người.
- Hơn thế nữa, do là hệ thống tri thức hình thành gắn liền với các nhu cầu xã hội, kinh tế của cộng đồng và điều kiện tự nhiên – lịch sử nơi cộng đồng ấy cư trú, nên các tri thức địa phương trong rất nhiều trường hợp lại tỏ ra phù hợp hơn so với các tri thức khoa học, vốn dĩ được xây dựng để áp dụng phổ biến chứ không phải phát triển riêng cho một cộng đồng cụ thể (Sillitoe 1998, Briggs &.
- Trong nghiên cứu văn hóa nói chung và tri thức địa phương nói riêng, nhiệm vụ của nhân học là góp phần kết hợp cái nhìn của cộng đồng bản địa với cái nhìn của nhà nghiên cứu, để từ đó đánh giá vấn đề một cách toàn diện hơn.
- Trong quá trình nghiên cứu, nhà nhân học, với kinh nghiệm thực tiễn khi làm việc trong các môi trường văn hóa khác nhau, là người có thể cung cấp cái nhìn so sánh để chỉ ra những mặt tích cực và hạn chế, những điểm tương đồng và khác biệt giữa các nền văn hóa, và đặc biệt là chỉ ra những giá trị văn hóa cần bảo vệ và phát triển.
- Nói cách khác, nhân học nghiên cứu tri thức địa phương không chỉ để tìm thấy những giá trị của nó, mà còn để thấy những hạn chế của tri thức địa phương, đặc biệt là trong việc thích ứng với những thay đổi vĩ mô về điều kiện tự nhiên, dân số, quỹ đất đai, nguồn nước, các tài nguyên thiên nhiên 1 .
- Bằng cách kết hợp giữa tri thức địa phương và tri thức khoa học, giữa quan điểm của người bản địa với quan điểm của nhà nghiên cứu, nhân học có thể tránh được xu hướng tuyệt đối hóa tri thức địa phương và loại bỏ sự bảo thủ, trì trệ trong việc tiếp nhận những tri thức mới.
- Các nghiên cứu nhân học cho thấy loại hình canh tác này, mặc dù là một phương pháp rất thích hợp với đặc điểm địa hình, khí hậu của nơi cư trú của nhiều cộng đồng, nhưng lại chỉ phù hợp trong điều kiện áp lực dân số ở mức độ vừa phải.
- bỏ bất kỳ một hệ thống thứ bậc nào giữa các tri thức, và đặt các tri thức ngang nhau trong một mạng lưới đa chiều, để từ đó nhìn nhận những mặt ưu việt và hạn chế của tất cả các hệ thống, bao gồm cả tri thức địa phương lẫn tri thức khoa học