« Home « Kết quả tìm kiếm

Khủng hoảng tài chính - mô hình lý thuyết và những nguy cơ đối với Việt Nam trong quá trình hội nhập hiện nay


Tóm tắt Xem thử

- Khủng hoảng tài chính - mô hình lý thuyết và những nguy cơ đối với Việt Nam trong.
- Sự phát triển của hệ thống tài chính toàn cầu bên cạnh việc mang lại những cơ hội lớn cho mỗi quốc gia, mỗi dân tộc thì đồng thời cũng tiềm ẩn những nguy cơ khủng hoảng.
- Sự thay đổi của các thị trường tài chính cùng với mức độ mở cửa thương mại và tài chính của các nước và những điều kiện bên trong của mỗi quốc gia đều có thể dẫn đến nguy cơ khủng hoảng.
- Sau hơn 20 năm đổi mới, mở cửa và hội nhập, nền kinh tế Việt Nam đã có bước phát triển mạnh mẽ trên nhiều phương diện.
- Với thế và lực mới, trên con đường phát triển của mình, Việt Nam sẽ ngày càng hội nhập sâu rộng hơn vào hệ thống kinh tế quốc tế.
- Đi cùng với quá trình này, Việt Nam cũng có thể phải đối mặt với những rủi ro tài chính, bất ổn tài chính do quá trình tự do hoá thương mại và tự do hoá cán cân thanh toán quốc tế đem lại.
- Những nguy cơ khủng hoảng xuất hiện cả bên trong lẫn bên ngoài là những dấu hiệu cảnh báo về một cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong tương lai có thể xảy ra ở Việt Nam..
- Khủng hoảng tài chính - tiền tệ có một lịch sử khá dài gắn liền với sự ra đời và phát triển của hệ thống tài chính trong nền kinh tế thế giới.
- Mặc dù có những điểm giống nhau, nhưng các cuộc khủng hoảng những năm vừa qua khác với các cuộc khủng hoảng trước đây trên nhiều khía cạnh quan trọng, đặc biệt là ở tác động quá mức và khả năng lây lan của khủng hoảng dường như rất lớn và vượt quá khả năng kiểm soát.
- Một số khía cạnh lý thuyết về khủng hoảng.
- Khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong thời đại hiện nay là gì?.
- Khủng hoảng tài chính (Financial Crisis) là tình trạng tài chính (quỹ) mất cân đối nghiêm trọng có thể dẫn đến sụp đổ quỹ.
- loại tiền thì có thể xảy ra khủng hoảng tài chính.
- Như vậy, khủng hoảng tài chính là khái niệm bao trùm được sử dụng chung cho mọi loại khủng hoảng gắn với mất cân đối về tài chính và thường là gắn với nghĩa vụ phải thanh toán lớn hơn nhiều phương tiện dùng để thanh toán tại một thời điểm nào đó..
- Chính vì vậy, khủng hoảng tài chính có đặc điểm của khủng hoảng “thiếu” chứ không giống khủng hoảng “thừa” diễn ra trong nền kinh tế thị trường từ nhiều năm nay..
- Một số dạng khủng hoảng tài chính đặc thù như: Khủng hoảng ngân hàng (Banking Crisis).
- Khủng hoảng nợ quốc gia (National Debt Crisis).
- Khủng hoảng tiền tệ (Money Crisis).
- Khủng hoảng thị trường chứng khoán (Crisis of Security Market).
- Khủng hoảng cán cân thanh toán/ Cán cân vãng lai/.
- Khủng hoảng khả năng/ tính thanh khoản (Crisis of Liquidity).
- Khủng hoảng ngân sách (Budget Crisis).
- Đây là những dạng khủng hoảng tài chính cơ bản và trong tương lai có thể xuất hiện thêm nhiều dạng nữa cùng với sự phát triển của thị trường tài chính trong tiến trình phát triển và hội nhập kinh tế quốc tế..
- Các mô hình khủng hoảng cơ bản.
- Dựa trên đặc điểm và tính chất của các cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ đã nổ ra, các học giả đã xây dựng nên 3 mô hình khủng hoảng cơ bản..
- Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ nhất được P.
- Khi lượng dự trữ ngoại hối giảm xuống một mức thấp nhất định nào đó, các cuộc tấn công mang tính đầu cơ bắt đầu xảy ra, cùng với các điều kiện nền tảng kinh tế vĩ mô quá yếu kém và thậm chí là sự gia tăng căng thẳng về chính trị và xã hội, đến một thời điểm nào đó, Chính phủ buộc phải chấm dứt chế độ tỷ giá cố định và chuyển sang thả nổi tỷ giá làm cho đồng nội tệ bị mất giá liên tục và khủng hoảng tiền tệ xảy ra.
- Mô hình này được thể hiện rõ nhất trong các cuộc khủng hoảng ở một số nước châu Mĩ La Tinh vào cuối những năm 1970, đầu những năm 1980 và trong những năm 1990..
- Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai.
- Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai được Obstfeld (1994 và 1995) xây dựng [1]..
- Khủng hoảng dạng này còn được gọi là khủng hoảng tự phát sinh (self-fulfilling crisis), có thể xảy ra ở những nước có mức độ yếu kém về tài chính và vĩ mô vừa phải, song cam kết duy trì chế độ tỷ giá cố định của Chính phủ bị suy yếu do các biện pháp bảo vệ tỷ giá quá tốn kém (chẳng hạn do thắt chặt tiền tệ, lãi suất bị đẩy lên cao, gây tác động xấu tới tăng trưởng kinh tế và tạo việc làm)..
- Những sức ép này buộc Chính phủ không có cách nào khác là phải từ bỏ chế độ tỷ giá cố định để thực thi chính sách tiền tệ mở rộng trước những cuộc tấn công quy mô của giới đầu cơ tiền tệ, và hậu quả là khủng hoảng bùng phát.
- Biến thể khác của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ hai xuất phát từ tình trạng thông tin không hoàn hảo và mất đối xứng..
- “bầy đàn”, gây hoảng loạn tài chính và rốt cuộc dẫn đến khủng hoảng tài chính - tiền tệ..
- Mô hình này có thể thấy trong cuộc khủng hoảng của Hệ thống tiền tệ châu Âu (European Monetary System) năm 1992-1993..
- Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba.
- Mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba được Yoshitomi và Ohno (1999) xây dựng, đặc trưng cho các cuộc khủng hoảng tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế (Balance of Payment) [1].
- Khủng hoảng tài khoản vốn thường dẫn đến khủng hoảng.
- “kép”: khủng hoảng tiền tệ và khủng hoảng ngân hàng.
- Việc tự do hoá tài khoản vốn thiếu một trình tự thích hợp đã dẫn đến hai hệ quả là tiền đề cho cuộc khủng hoảng kép:.
- Hậu quả là cán cân thanh toán trở nên thâm hụt trầm trọng và dự trữ ngoại hối dần cạn kiệt, báo hiệu về một cuộc khủng hoảng tiền tệ xảy ra..
- quá lớn (lớn hơn nhiều dự trữ ngoại hối) đã đổ vào nền kinh tế.
- Quá trình tác động vòng xoáy và cộng hưởng này gây nên khủng hoảng bùng phát trong một thời gian rất ngắn và đẩy các nền kinh tế ngập sâu vào vòng suy thoái.
- Cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 được coi là ví dụ điển hình của mô hình khủng hoảng thế hệ thứ ba..
- So sánh bối cảnh các nền kinh tế Đông Á trong thời kỳ khủng hoảng với bối cảnh kinh tế Việt Nam trong giai đoạn hiện nay.
- Cũng giống như các nước châu Á khác, Việt Nam hiện nay được đánh giá là ít bị tổn thương hơn trước một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán so với cách đây 10 năm.
- Thứ nhất, thặng dư cán cân vãng lai, nợ nước ngoài thấp cho phép Việt Nam và nhiều nước trong khu vực bảo vệ mình trước tác động của bất cứ cuộc đầu cơ nào trong tương lai..
- Cuộc khủng hoảng tín dụng nhà đất tại Mĩ vào cuối năm 2007 đã khiến nền kinh tế này bước vào giai đoạn suy thoái, đẩy đồng USD mất giá nhiều hơn nữa.
- Điều này sẽ có lợi cho tăng trưởng xuất khẩu của Việt Nam trong ngắn hạn.
- Thứ ba, mặc dù kinh tế Mĩ đang trong thời kỳ suy thoái, nhưng sức cầu về hàng hoá xuất khẩu từ các nước Đông Á, trong đó có Việt Nam vẫn tăng lên do kinh tế Nhật Bản đang trong giai đoạn phục hồi..
- Rõ ràng, bối cảnh kinh tế của Việt Nam giai đoạn hiện nay hoàn toàn khác so với bối cảnh của các nền kinh tế Đông Á trước cuộc khủng hoảng 1997-1998.
- Điều này cho phép Việt Nam tránh được rủi ro của một cuộc khủng hoảng tài chính tương tự trong tương lai gần.
- Tuy nhiên, dường như vẫn còn đó những nguy cơ tiềm ẩn mà Việt Nam có thể phải đối mặt trong tương lai..
- Những nguy cơ có thể gây ra khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam.
- Tuy nhiên, liên quan đến vấn đề chất lượng tăng trưởng, có thể nói, tốc độ tăng trưởng của Việt Nam không cao vì hiệu quả đầu tư của nền kinh tế thấp, được thể hiện qua hệ số ICOR - là hệ số cho biết số đơn.
- Nhìn vào bảng 1 ta thấy ICOR của Việt Nam hiện đang rất cao so với Hàn Quốc và Đài Loan trong những giai đoạn phát triển tương đương.
- GDP, trong khi đó Việt Nam đầu tư tới 33,5%.
- Nói cách khác, cái giá phải trả cho tăng trưởng của Việt Nam cao gần gấp đôi so với Đài Loan..
- Bảng 1: Hệ số ICOR của Việt Nam so với một số nước trong khu vực.
- Việt Nam .
- Mất cân đối trong cán cân thương mại, đặc biệt sau khi Việt Nam gia nhập Tổ chức Thương mại Thế giới (WTO).
- Tình hình nhập siêu của Việt Nam trong những năm qua liên tục tăng lên.
- Năm 1993, Việt Nam vẫn nằm trong tình trạng mất khả năng thanh toán nợ, bị các tổ chức tài chính quốc tế xếp vào danh sách các quốc gia nghèo mắc nợ nặng nề (HIPCs) với tỷ lệ nợ nước ngoài/GDP lên tới 173%.
- Hiện nay nợ nước ngoài của Việt Nam chiếm khoảng gần 40% GDP và nợ thực tế chỉ chiếm khoảng 30% GDP [4]..
- Poor’s thì tình trạng nợ nước ngoài của Việt Nam tương đối bền vững và vẫn nằm trong tầm kiểm soát.
- Hệ thống tài chính - ngân hàng yếu kém Trong những năm qua, cùng với quá trình cải cách kinh tế, hệ thống tài chính - tiền tệ nói chung và thị trường tài chính (TTTC) Việt Nam nói riêng có những bước phát triển nhất định.
- Tuy đạt được không ít thành tựu, song TTTC Việt Nam vẫn còn được xem là kém phát triển.
- Những yếu kém của hệ thống ngân hàng Việt Nam đó là:.
- Tuy nhiên, mới chỉ có hầu hết các ngân hàng thương mại (NHTM) cổ phần Việt Nam đáp ứng được tỷ lệ này..
- Nhưng ở Việt Nam, trong số 5 NHTM nhà nước có quy mô hoạt động lớn nhất tính đến đầu năm 2006 thì chỉ có Ngân hàng Ngoại thương Việt Nam đạt chỉ tiêu tài chính theo đúng với thông lệ quốc tế.
- Trong bối cảnh mở cửa kinh tế - tài chính, tình trạng yếu kém năng lực về vốn, quản trị, công nghệ, cùng với những rủi ro hệ thống còn cao, sẽ đặt hệ thống tài chính Việt Nam vào vị thế dễ bị tổn thương nếu không có những biện pháp điều hành quản lý vĩ mô thích hợp.
- Rủi ro này có thể gia tăng trong bối cảnh Việt Nam dần mở cửa tài khoản vốn trong cán cân thanh toán quốc tế và cho phép đồng tiền Việt Nam.
- Như đã phân tích ở trên, với nợ nước ngoài thấp và thặng dư lớn trong cán cân vãng lai, Việt Nam hiện nay, cũng tương tự như nhiều nước khác trong khu vực được đánh giá là ít bị tổn thương hơn trước một cuộc khủng hoảng cán cân thanh toán so với cách đây 10 năm.
- Những rủi ro này đang tạo ra một cuộc khủng hoảng tài chính mới nhưng không phải bắt nguồn từ.
- Điều này cuối cùng sẽ dẫn tới những tổn thương tương tự như những dòng vốn nước ngoài lớn đổ vào trong nước, làm bùng nổ tín dụng, tình trạng “quá nóng” và “các bong bóng” đã xuất hiện trước cuộc khủng hoảng tài chính 1997.
- Tuy nhiên, vấn đề lạm phát ở Việt Nam không đơn thuần chỉ là do yếu tố khách quan, mà quan trọng hơn chính là do các yếu tố chủ quan, có tính nội tại của nền kinh tế.
- Tuy nhiên, lạm phát ở các nước này tính đến thời điểm hiện tại lại thấp hơn đáng kể so với Việt Nam.
- Nguyên nhân chính là Việt Nam có tỷ lệ đầu tư/ GDP cao kỷ lục, tín dụng tăng trưởng rất nhanh, trong đó một tỷ lệ rất lớn được dành cho các DN nhà nước kém hiệu quả.
- giai đoạn vừa qua, Việt Nam tiếp nhận khá nhiều nguồn vốn FDI, đầu tư gián tiếp, ODA, kiều hối… từ nước ngoài.
- Tính trung bình, tốc độ tăng trưởng tín dụng của Việt Nam trong 5 năm qua vào khoảng 30%/năm (năm 2007 con số này tăng đột biến, lên tới hơn 40%)..
- Nếu như những nguy cơ từ bên trong xuất phát từ nội tại nền kinh tế, đặc biệt là sự yếu kém của hệ thống tài chính, thì những nguy cơ từ bên ngoài lại xuất phát từ quá trình hội nhập, mở cửa, tự do hoá tài chính, tự do hoá thương mại, hoặc do lây nhiễm khủng hoảng.
- Nguy cơ vỡ nợ do sử dụng tiền vay ngắn hạn đầu tư dài hạn (như ở Thái Lan trong cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ .
- Nguy cơ lây nhiễm biểu hiện ở 3 nguy cơ trên rất dễ xảy ra khi nền kinh tế chịu những cú sốc tài chính từ bên ngoài, nhất là những cuộc khủng hoảng tài chính - tiền tệ trong điều kiện hội nhập kinh tế - tài chính quốc tế mạnh mẽ như hiện nay.
- Nguy cơ mất chủ quyền: Chính phủ có thể phải hy sinh một số mục tiêu chiến lược để đối phó với các nguy cơ khi thực hiện tự do hoá tài chính, đồng thời giảm khả năng độc lập trong hoạch định các chính sách kinh tế - xã hội, nhất là khi xảy ra khủng hoảng tài chính vì chính phủ buộc phải cắt giảm ngân sách, giảm các chỉ tiêu tăng trưởng và các.
- Tóm lại, nền kinh tế Việt Nam đã xuất hiện những dấu hiệu bất ổn về kinh tế vĩ mô..
- Thậm chí, có thể nói rằng những dấu hiệu tiền khủng hoảng 1997-1998 đã xuất hiện ở Việt Nam.
- thứ nhất, vay nợ của Việt Nam vẫn nằm trong phạm vi kiểm soát được.
- thứ hai, Việt Nam vẫn chưa tự do hoá tài khoản vốn.
- Từ những phân tích ở trên, có thể thấy khủng hoảng tài chính - tiền tệ ở Việt Nam nếu xảy ra sẽ mang đặc thù sau:.
- Khủng hoảng xuất phát từ khu vực kinh tế nhà nước nhiều hơn từ các khu vực kinh tế khác.
- Đây là điểm khác biệt so với đặc điểm của khủng hoảng tài chính - tiền tệ châu Á 1997-1998 xuất phát từ khu vực tư nhân.
- Tuy nhiên nếu khủng hoảng tài chính - tiền tệ nổ ra, chắc chắn khu vực này sẽ chịu tác động đầu tiên và hậu quả nặng nề hơn bất cứ khu vực nào khác..
- nhưng do cấu trúc tài chính của Việt Nam vẫn dựa trên ngân hàng nên khủng hoảng tài chính sẽ có dạng thức của khủng hoảng ngân hàng do những yếu kém đặc biệt của khu vực này trong khi các định chế tài chính phi ngân hàng còn kém phát triển..
- Với nền tảng kinh tế vĩ mô vững chắc và điều kiện quốc tế khác hẳn so với năm 1997, có thể nói khủng hoảng tài chính - tiền tệ chưa thể xảy ra ở Việt Nam trên diện rộng..
- Nếu có xảy ra thì chỉ có thể là khủng hoảng cục bộ ở một số lĩnh vực của nền kinh tế..
- Song, trong quá trình mở cửa, tự do hoá tài chính, tự do hoá tài khoản vốn, Việt Nam vẫn có thể phải đối mặt nhiều hơn với những rủi ro tài chính, bất ổn tài chính.
- Tuy nhiên, những diễn biến vừa qua trên thị trường trong và ngoài nước cho thấy Việt Nam đang phải đối mặt với những rủi ro nghiêm trọng, đặc biệt là trong lĩnh vực tài chính - tiền tệ và những vấn đề kinh tế vĩ mô khác.
- [3] Kinh tế Việt Nam và Thế giới Thời báo kinh tế Việt Nam, 2008..
- [5] Kinh tế Việt Nam và Thế giới Thời báo kinh tế Việt Nam, 2007..
- [6] Vũ Thành Tự Anh, Tăng trưởng của Việt Nam có thực sự nhanh và bền vững?, Tạp chí Tia Sáng